menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG phiên 2/7/2020: Giá hàng công nghiệp tăng, nông sản hầu hết giảm

12:41 03/07/2020

Vinanet - Phiên giao dịch vừa qua, giá dầu, vàng, đồng… đều tăng. Trái lại, giá ngô và cà phê đi xuống.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau số liệu việc làm tích cực của Mỹ trong tháng 6/2020.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 8/2020 tăng 83 US cent lên 40,65 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 9/2020 tăng 1,11 USD lên 43,14 USD/thùng.
Cơ quan Thống kê Lao động Mỹ cho biết, tổng số việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của nước này đã tăng 4,8 triệu trong tháng 6/2020, cao hơn mức dự báo của thị trường và là mức tăng nhiều nhất kể từ khi chính phủ bắt đầu thống kê năm 1939.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, tồn trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 7,2 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 26/6, trong khi các nhà phân tích do S & P Global Platts đã dự báo mức giảm nguồn cung trung bình là 2,7 triệu thùng.
Đà tăng của giá dầu tiếp tục bị kiềm chế bởi số trường hợp nhiễm Covid-19 mới tại Mỹ trong ngày 1/7/2020 tăng gần 50.000 – ngày tăng mạnh nhất kể từ khi bắt đầu dịch.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ, bị kiềm chế bởi triển vọng kinh tế hồi phục được cải thiện sau số liệu cho thấy rằng số liệu việc làm trong tháng 6/2020 đạt mức cao kỷ lục.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.777,04 USD/ounce, gần mức cao nhất của gần tám năm là 1.788,96 USD/ounce hôm 1/7; vàng kỳ hạn tháng 6/2020 tăng 0,6% lên 1.790 USD/ounce.
Đồng USD giao dịch ở mức thấp của một tuần so với rổ tiền tệ chính lúc đầu phiên.
Nhiều người cho rằng nền kinh tế đang tăng trưởng trở lại và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ không phải đưa ra thêm các biện pháp kích thích. Tuy nhiên, biên bản cuộc họp công bố ngày 1/7 của Fed đã chỉ ra yếu tố sẽ khiến "lãi suất duy trì ở mức thấp cho đến năm 2022", qua đó "tiếp thêm sức mạnh" cho vàng.
Các nhà hoạch định chính sách của Fed đang nỗ lực thực hiện trở lại cam kết trong thời kỳ Đại Suy thoái là duy trì lãi suất ở mức thấp cho đến khi một số điều kiện được đáp ứng.
Giá vàng đã tăng 17% giá trị kể từ đầu năm 2020 đến nay nhờ các biện pháp kích thích và các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất.
Về nhữn kim loại quý khác, giá palađi giao dịch ở mức 1.905,10 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,7% xuống 810,10 USD/ounce, trong khi giá bạc nhích nhẹ 0,2% lên 17,97 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng phiên thứ 6 liên tiếp do nguồn cung tại Chile - nước sản xuất lớn nhất thế giới – gián đoạn và nhiều dấu hiệu các nền kinh tế lớn hồi phục.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,3% lên 6.077,5 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 22/6/2020. Tính từ đầu tuần đến nay, giá đồng có tuần tăng thứ 7 liên tiếp – chuỗi tăng dài nhất trong gần 3 năm.
Trong nhóm sắt thép, giá thép cây tại Thượng Hải rời khỏi chuỗi giảm 3 phiên liên tiếp, do sự hỗ trợ tài chính của chính phủ làm dấy lên kỳ vọng nhu cầu tăng, song lĩnh vực này đang trong mùa thấp điểm.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 tăng 0,3% lên 3.573 CNY (505,89 USD)/tấn - lần tăng đầu tiên trong tuần này. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1,8% lên 13.355 CNY/tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng giảm 0,2% xuống 3.563 CNY/tấn.
Bộ Tài chính Trung Quốc đang có kế hoạch bán thêm trái phiếu kho bạc đặc biệt để hỗ trợ các cơ sở hạ tầng liên quan đến y tế công cộng và hỗ trợ nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi virus corona, một phần trong đề xuất phát hành 1 nghìn tỉ CNY trái phiếu trong năm nay.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,4% xuống 739 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giảm từ mức cao nhất gần 3,5 tháng sau khi tăng mạnh bởi diện tích trồng ngô thấp hơn so với dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 7 US cent xuống 3,43-1/2 USD/bushel. Tính từ đầu tuần đến nay, giá ngô tăng gần 7,6% - tăng mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 14/6/2019. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2020 giảm 1/4 US cent xuống 8,91-1/4 USD/bushel. Tính từ đầu tuần đến nay, giá đậu tương tăng 3,6% - mức tăng mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 13/9/2019. Đồng thời, giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 6-3/4 US cent xuống 4,92 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE tăng 0,07 US cent tương đương 0,6% lên 12,24 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 6 USD tương đương 1,7% lên 350,3 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn New York giảm 0,8 US cent tương đương 0,8% xuống 1,032 USD/lb, sau khi có chuỗi tăng 4 phiên liên tiếp đẩy giá cà phê lên mức cao nhất trong hơn 1 tháng; robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2 USD tương đương 0,2% xuống 1.202 USD/tấn.
Tại Châu Á, giá cà phê Việt Nam giảm, hoạt động giao dịch trầm lắng do thiếu nguồn cung, cùng với đó là giá cà phê tại Indonesia giảm do nguồn cung tiếp tục tăng. Cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen&vỡ) được chào giá cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 240 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 32.000 đồng (1,38 USD)/kg, không thay đổi so với cách đây 1 tuần.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 300 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 340 USD/tấn cách đây 1 tuần. Indonesia xuất khẩu 14.172 tấn cà phê robusta trong tháng 6/2020 từ tỉnh Lampung trên đảo Sumatra.
Giá cao su tại Tokyo tăng do lạc quan xung quanh sự phục hồi kinh tế toàn cầu nhanh hơn, được thúc đẩy bởi số liệu kinh tế tích cực và sự phát triển đầy hứa hẹn từ thuốc thử nghiệm Covid-19. Cao su kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn TOCOM tăng 1 JPY tương đương 0,7% lên 155,4 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 165 CNY tương đương 1,6% lên 10.375 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 3/7/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,44

-0,21

-0,52%

Dầu Brent

USD/thùng

42,93

-0,21

-0,49%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.560,00

+310,00

+1,10%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,72

-0,01

-0,87%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

125,07

-0,85

-0,68%

Dầu đốt

US cent/gallon

122,98

-0,13

-0,11%

Dầu khí

USD/tấn

365,75

+2,75

+0,76%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

41.840,00

+360,00

+0,87%

Vàng New York

USD/ounce

1.788,00

-2,00

-0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.148,00

+32,00

+0,52%

Bạc New York

USD/ounce

18,31

-0,02

-0.04%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,00

+0,20

-1.59%

Bạch kim

USD/ounce

814,55

+0,78

+0,10%

Palađi

USD/ounce

1.915,88

+4,19

+0,22%

Đồng New York

US cent/lb

274,05

-0,80

-0,29%

Đồng LME

USD/tấn

6.073,00

+12,00

+0,20%

Nhôm LME

USD/tấn

1.621,00

0,00

0,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.044,50

+3,00

+0,15%

Thiếc LME

USD/tấn

16.830,00

+80,00

+0,48%

Ngô

US cent/bushel

343,50

-7,00

-2,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

492,00

-6,75

-1,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

283,25

-3,50

-1,22%

Gạo thô

USD/cwt

12,31

-0,04

-0,28%

Đậu tương

US cent/bushel

896,75

-2,25

-0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,20

-0,40

-0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,75

-0,26

-0,90%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

476,30

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.179,00

+10,00

+0,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

103,20

-0,80

-0,77%

Đường thô

US cent/lb

12,24

+0,07

+0,58%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

124,55

-4,40

-3,41%

Bông

US cent/lb

62,95

+0,19

+0,30%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

438,30

+6,30

+1,46%

Cao su TOCOM

JPY/kg

155,30

-0,10

-0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,30

+0,05

+3,60%

 

 

Nguồn:VITIC/ Reuters, Bloomberg