menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG phiên 30/1/2020: Giá dầu, đồng, cà phê giảm; vàng tăng

12:00 31/01/2020

Vinanet - Phiên giao dịch vừa qua trên thị trường quốc tế, giá hàng hóa nguyên liệu tiếp tục chịu tác động từ lo ngại về dịch bệnh do virus corona gây ra.
Dịch viêm phổi cấp gây ra bởi virus corona bắt nguồn từ Trung Quốc hiện đã lây lan sang hơn 15 quốc gia, phá hủy ngành du lịch toàn cầu và buộc một số công ty ngừng hoạt động tại nước này. Lo lắng về khả năng dịch bệnh tác động tiêu cực đến tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tạo ra làn sóng bán tháo mạnh trên các thị trường tài chính, đưa các nhà đầu tư đến với tài sản an toàn như vàng, đồng yen Nhật và đồng franc Thụy Sỹ.
Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Mỹ ngày 30/1 thông báo họ đã xác nhận trường hợp đầu tiên nhiễm chủng mới của virus corona (2019-nCoV) từ một người khác trên lãnh thổ nước này. Cụ thể, đây là người thứ hai tại bang Illinois dương tính với virus corona mới, là một cư dân thành phố Chicago và là chồng của bệnh nhân đầu tiên được xác định là một phụ nữ ngoài 60 tuổi, gần đây đã tới Vũ Hán (Trung Quốc).
Tại cuộc họp kín của Ủy ban khẩn cấp Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Geneva (Thụy Sĩ) vào rạng sáng 31/1 (theo giờ Việt Nam), Tổng giám đốc Tedros Adhanom Ghebreyesus đã quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp toàn cầu vì dịch viêm đường hô hấp do chủng mới của virus corona (2019nCoV) gây ra. Đây là loại virus gây bệnh viêm phổi khởi phát từ Trung Quốc đã làm hơn 210 người tử vong và hơn 7.000 người nhiễm ở 17 quốc gia trên thế giới. Tình trạng khẩn cấp toàn cầu là công cụ ràng buộc về mặt pháp lý quốc tế liên quan đến phòng chống dịch bệnh, giám sát, kiểm soát và phản ứng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong 3 tháng qua do lo ngại về tác động kinh tế tiềm tàng từ sự lan rộng trên phạm vi toàn cầu của dịch bệnh viêm phổi mới do chủng virus Corona. Thị trường dầu cũng đang theo dõi khả năng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tiến hành họp sớm.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,52 USD (tương đương 2,5%) xuống 58,29 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 8/11; dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,19 (khoảng 2,2%) xuống 52,14 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 10/11.
Giá dầu thô thế giới giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tháng qua giữa lúc các nhà đầu tư cố gắng đánh giá thiệt hại kinh tế mà dịch virus Corona gây ra cũng như tác động của nó đối với nhu cầu dầu thô và các sản phẩm khác từ “vàng đen”.
Sự bùng phát của dịch virus Corona được cho là sẽ tác động xấu đến nền kinh tế Trung Quốc, với tổng số ca nhiễm mới cao hơn so với số lượng ca nhiễm bệnh trong đợt bùng phát dịch bệnh Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) hồi năm 2002-2003.
Trong khi đó, Saudi Arabia đã mở cuộc thảo luận về việc tiến hành sớm cuộc họp chính sách sắp tới của OPEC+ vào đầu tháng Hai thay vì trong tháng Ba, sau khi giá dầu liên tục sụt giảm trong thời gian gần đây.
Hiện OPEC+, nhóm sản xuất bao gồm các thành viên OPEC và các quốc gia khác như Nga, đã tham gia vào một thỏa thuận cắt giảm nguồn cung dầu để hỗ trợ giá “vàng đen”. Hồi tháng 12/2019, nhóm này đã đồng ý duy trì kế hoạch cắt giảm sản lượng 1,7 triệu thùng/ngày cho đến cuối tháng 3/2020.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng do giới đầu tư lo ngại về nguy cơ kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại trước tác động của dịch viêm phổi do virus Corona làm suy yếu tâm lý ưa rủi ro của các nhà đầu tư.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.583,93 USD/ounce; vàng giao tháng 2/2020 tăng 0,8% lên 1.583,5 USD/ounce.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao tại OANDA, cho biết tác động kinh tế của dịch bệnh gây ra bởi virus Corona đang gia tăng và xu hướng đầu tư vào trái phiếu kho bạc cũng như vàng nhiều khả năng được duy trì tại Phố Wall.
Phiên này, giá palađi gần như không thay đổi ở mức 2.289,7 USD/ounce, sau khi có lúc tăng lên mức kỷ lục 2.582,19 USD/ounce trong phiên 20/1 do lo ngại về nguồn cung. Giá bạc phiên này tăng 2,3% lên 17,94 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,1% lên 974,71 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 5 tháng do các quỹ bán ra bởi dự đoán nhu cầu chậm lại tại Trung Quốc, nơi bùng phát virus corona.
Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1% xuống 5.587,5 USD/tấn. Giá kim loại này đã giảm xuống 5.565,5 USD, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 9/2019 và giảm 12% kể từ ngày 16/1/2020.
Giá đồng dự kiến sẽ được duy trì bởi dự trữ LME thấp ở mức 182.550 tấn, giảm hơn 45% kể từ cuối tháng 8/2019. Một khảo sát gần đây của Reuters cho thấy các nhà phân tích dự kiến thiếu hụt 160.000 tấn đồng trong năm nay.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 0,55 US cent hay 0,5% xuống 1,015 USD/lb, phục hồi từ 1,009 USD thấp nhất 3 tháng trước đó. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 3 giảm 1 USD hay 0,1% xuống 1.304 USD/tấn.
Theo thăm dò của Reuters, sản lượng của Brazil dự kiến tăng kỷ lục lên 66,9 triệu bao (60 kg/bao) trong niên vụ 2020/21.
Ngân hàng Commerzbank lưu ý nguồn cung từ Brazil sẽ bổ sung vào thị trường trong những tháng tới và cà phê arabica là hàng hóa mất giá nhiều nhất trong số các hàng hóa giao dịch từ đầu năm tới nay.
Tại Việt Nam, nông dân Tây Nguyên đã bán cà phê ở mức 31.000 - 31.500 đồng (1,34 - 1,36 USD)/kg so với 32.300 - 32.500 đồng trong tuần trước khi nghỉ Tết Nguyên đán. Việc giao dịch vẫn chưa trở lại bình thường sau đợt nghỉ lễ dài ngày.
Trong khi nông dân chưa sẵn sàng bán cà phê ở mức giá này do không bù đắp đủ chi phí sản xuất, một số nông dân đã bán hoa quả trồng cùng với cà phê để trang trải nhu cầu cần thiết.
Cà phê robusta của Việt Nam loại 2 với 5% hạt đen và vỡ được chào bán ở mức cộng 80 - 90 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020, hai tuần trước ở mức cộng 70 - 80 USD/tấn.
Tại Indonesia, cà phê rubusta loại 4 khiếm khuyết 80 được chào ở mức cộng 240 - 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020 tại London, 2 tuần trước giá bán ở mức cộng 220 - 250 USD/tấn. Giao dịch vẫn trầm lắng kể từ khi nguồn cung hạn chế.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 1,4 USD hay 0,3% lên 408,2 USD/tấn; đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,10 US cent hay 0,7% lên 14,59 US cent/lb.
Các đại lý cho biết thị trường này tiếp tục được hỗ trợ bởi nguồn cung thắt chặt.
Đường trắng kỳ hạn tháng 3 hiện nay giao dịch ở mức cộng 9 USD/tấn so với đường trắng kỳ hạn tháng 5.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) giảm hơn 3%, lấy đi gần hết mức tăng trong phiên trước, khi số người chết vì virus corona gia tăng làm dấy thêm nỗi lo về suy giảm kinh tế tại Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu cao su hàng đầu thế giới.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 7/2020 đóng cửa giảm 5,7 JPY hay 3,1% xuống 180 JPY (1,64 USD)/kg.
Ủy ban Khẩn cấp của WHO triệu tập lại vào cuối ngày 30/1 để quyết định sự lây lan nhanh chóng của virus hiện nay có được coi là tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu không.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn giao dịch SICOM, Singapore giảm 1,8% xuống 134,6 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,29

+1,15

+2,21%

Dầu Brent

USD/thùng

59,40

+1,11

+1,90%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.040,00

+580,00

+1,55%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,83

0,00

-0,16%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

151,97

+2,60

+1,74%

Dầu đốt

US cent/gallon

163,96

-6,39

-3,75%

Dầu khí

USD/tấn

511,50

+2,50

+0,49%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.740,00

+630,00

+1,19%

Vàng New York

USD/ounce

1.576,50

-12,70

-0,80%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.509,00

-9,00

-0,16%

Bạc New York

USD/ounce

17,81

-0,19

-1,04%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,40

+0,70

+1,13%

Bạch kim

USD/ounce

983,50

+4,04

+0,41%

Palađi

USD/ounce

2.311,43

+11,95

+0,52%

Đồng New York

US cent/lb

255,75

+3,35

+1,33%

Đồng LME

USD/tấn

5.587,50

-53,50

-0,95%

Nhôm LME

USD/tấn

1.731,00

-6,00

-0,35%

Kẽm LME

USD/tấn

2.188,00

-23,00

-1,04%

Thiếc LME

USD/tấn

16.025,00

-175,00

-1,08%

Ngô

US cent/bushel

382,25

+2,75

+0,72%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

565,50

+5,00

+0,89%

Lúa mạch

US cent/bushel

305,50

-2,25

-0,73%

Gạo thô

USD/cwt

13,62

+0,06

+0,44%

Đậu tương

US cent/bushel

881,50

+5,25

+0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

293,00

+1,50

+0,51%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,90

+0,27

+0,88%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

457,00

+0,60

+0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.801,00

+74,00

+2,71%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

101,50

-0,55

-0,54%

Đường thô

US cent/lb

14,59

+0,10

+0,69%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

95,45

-1,65

-1,70%

Bông

US cent/lb

69,05

-1,01

-1,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

436,10

+8,10

+1,89%

Cao su TOCOM

JPY/kg

180,70

+0,70

+0,39%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

0,00

-0,15%

Nguồn:VITIC/ Reuters, Bloomberg