menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 21/6: Cà phê và đường tăng, vàng giảm, dầu biến động thất thường

14:43 21/06/2018

Vinanet - Phiên giao dịch 20/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 21/6 giờ VN), giá hàng hóa tiếp tục biến động.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động trái chiều. Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 7/2018 tăng 1,15 USD lên 66,22 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 8/2018 giảm 0,34 USD xuống 74,74 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dự trữ dầu thô của nước này đã giảm 5,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 15/6, vượt dự báo của thị trường. Với lượng dự trữ vào khoảng 426,5 triệu thùng kho dự trữ dầu mỏ của Mỹ vào thời điểm này đang thấp hơn 2% so với mức trung bình trong 5 năm qua.
Các thương gia cho biết sự sụt giảm nguồn cung tại Libya, gồm tổn thất bể chứa 400.000 thùng cũng hỗ trợ giá tăng. Sản lượng tại Libya giảm xuống còn 600.000 tới 700.000 thùng/ngày từ hơn 1 triệu thùng/ngày sau các cuộc đụng độ tại kho cảng dầu mỏ Ras Lanuf và Es Sider.
Tuy nhiên, dầu Brent kỳ hạn giảm sau khi Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Khalid al-Falih, cho biết thị trường có nhu cầu thêm nhiều dầu mỏ trong nửa cuối năm nay và Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đang thống nhất về một quyết định chính sách sản lượng tốt trong tuần này.
Saudi Arabia đang cố gắng thuyết phục các thành viên OPEC về sự cần thiết của việc tăng sản lượng. Nga, không phải thành viên OPEC nhưng là nhà sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới, cũng đang thúc đẩy nới lỏng thỏa thuận khiểm soát nguồn cung đã đưa ra để hỗ trợ giá trong năm 2017. Scott Sheffield, chủ tịch của công ty Pioneer Natural Resource nhất trí rằng OPEC nên nâng sản lượng khoảng 1 triệu thùng/ngày để giữ cân bằng nguồn cung dầu thô toàn cầu và nhu cầu.
Tuy nhiên, các thành viên khác của OPEC gồm Iran phản đối động thái như vậy, lo sợ giá sụt giảm. Iran báo hiệu họ có thể cho phép OPEC tăng sản lượng không nhiều, để một số thành viên OPEC đã cắt giảm quá mức trở lại tuân thủ theo hạn ngạch.
Các nhà giao dịch dầu mỏ đang chờ đợi cuộc họp của OPEC và Nga dự kiến sẽ diễn ra vào hai ngày 22-23/6 tại Vienna (Áo). Cuộc họp này các nước sẽ thảo luận về khả năng liệu có ngừng thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu đang được áp dụng hiện nay hay không.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ xuống gần thấp nhất 6 tháng trong bối cảnh đồng USD mạnh lên. Lãi suất ngày một tăng của Mỹ cũng gây sức ép lên thị trường kim loại quý.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.272,44 USD/ounce; vàng giao tháng 8 giảm 4,1 USD (0,3%) xuống 1.274,50 USD/ounce. Với những kim loại quý khác, giá bạch kim giao ngay tăng 0,7% lên 873,20 USD/ounce. Trước đó, kim loại quý này đã có lúc rơi xuống 854,50 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 3/2/2016. Giá bạc giao ngay tăng 0,3% lên 16,31 USD/ounce, còn giá palladium giảm 0,1% xuống 965,60 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất một tháng là 960,25 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD so với rổ tiền tệ chủ chố đã đứng ở mức 95,026 sau khi chạm đỉnh của 11 tháng là 95,296 hôm 19/6.
Căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc không cho thấy dấu hiệu dịu xuống. Ngày 19/6, cố vấn thương mại của Nhà Trắng cho biết Bắc Kinh đã đánh giá thấp quyết tâm áp thêm thuế của Tổng thống Mỹ. Nhận định này được đưa ra sau khi Washington dọa áp thuế lên lượng hàng hóa trị giá 200 tỷ USD của Trung Quốc và để đáp trả Bắc Kinh nói rằng sẽ tăng mức thuế đánh vào số hàng hóa trị giá 50 tỷ USD của Mỹ.
Vàng, vốn được coi là kênh đầu tư an toàn, thường sẽ tăng giá bởi căng thẳng kinh tế hoặc địa chính trị, song kim loại quý này đã bị chi phối bởi sự mạnh lên của đồng USD, qua đó khiến mặt hàng được giao dịch bằng đồng bạc xanh trở nên đắt đỏ hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền tệ khác.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, nguy cơ về một cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã đánh vào các thị trường tài chính, thúc đẩy một đợt thanh lý lớn của các hợp đồng đầu cơ kim loại theo chiều giá tăng trong những ngày gần đây.
Giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần sau khi dự trữ tăng cho thấy rõ tình trạng nguồn cung mạnh, trong khi nhôm giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4 sau số liệu sản lượng tăng trên toàn cầu. Đồng LME giao sau ba tháng giảm 1% xuống 6.773 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 30/5. Số liệu hàng ngày cho thấy dự trữ đồng trong kho của LME tăng 15.800 tấn lên 264.575 tấn, tăng 38% kể từ ngày 29/5. Oliver Nugent, chuyên gia chiến lược hàng hóa thuộc ngân hàng ING Bank ở Amsterdam cho biết, những dấu hiệu trên thị trường giao ngay cũng cho thấy đồng không bị thiếu hụt, mặc dù sản lượng đồng đã tinh chế của Trung Quốc tăng 15,5% so với một năm trước lên 767.000 tấn trong tháng 5. Giá nhôm và một số kim loại khác đã tăng trong đầu phiên giao dịch do việc săn giá hời, nhưng đã tiếp tục xu hướng giảm trong bối cảnh tranh chấp thương mại Mỹ Trung. Nickel và kẽm, chủ yếu được sử dụng trong ngành thép đã tăng khi giá thép kỳ hạn tại Trung Quốc phục hồi sau khi giảm gần 3% trong phiên trước. Nickel LME tăng 2,2% lên 14.850 USD/tấn. Thiếu hụt trong thị trường nickel toàn cầu nới rộng thành 52.600 tấn trong 4 tháng đầu năm nay từ mức 37.800 tấn trong cùng kỳ năm 2017.
Giá thép kỳ hạn tại Trung Quốc phục hồi sau khi giảm gần 3% trong phiên trước, mặc dù lo lắng về tranh chấp thương mại giữa Bắc Kinh và Washington đã hạn chế mức tăng. Hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa tăng 0,5% lên 3.817 NDT (590 USD)/tấn, sau khi giảm 2,9% trong phiên trước. Nhu cầu xây dựng yếu tại Trung Quốc, nước tiêu thụ và sản xuất thép hàng đầu thế giới, đã khiến giá thép giảm, với quặng sắt kỳ hạn gần mức thấp nhất 4 tháng trong phiên trước.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 0,4% xuống 453 NDT/tấn. Nguyên liệu thô này đã giảm 4,6% trong phiên trước khi giá chạm mức thấp nhất hai tháng tại 443,5 NDT. Kevin Bai, nhà phân tích tại công ty tư vấn CRU ở Bắc Kinh cho biết việc tăng thuế quan của Mỹ có thể gồm cả các sản phẩm làm từ thép tại Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu thép của nước này. Giá có thể khá biến động trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn sẽ đối mặt với nguy cơ giảm giá. Điều này một phần do nhu cầu thép tại Trung Quốc suy yếu bởi thời tiết nóng tại miền bắc và mưa tại miền nam đang cản trở hoạt động xây dựng. Trong khi đó các cuộc kiểm tra môi trường liên tục ở Trung Quốc đã hạn chế sản xuất tại một số tỉnh như Giang Tô và Hà Bắc.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta giao tháng 9 tăng 10 USD tương đương 0,59% lên 1.695 USD/tấn, hồi phục từ mức thấp nhất 2 năm của phiên trước (1.655 USD/tấn); arabica giao tháng 9 cũng tăng 0,25 US cent tương đương 0,2% lên 1,1665 USD/lb, cũng hồi phục từ mức thấp nhất kể từ 2016 ở phiên trước.
Đường thô kỳ hạn tháng 7 tăng 0,06 US cent hay 0,49% lên 12,19 US cent/lb sau khi giảm trong phiên trước cùng các hàng hóa khác. Hợp đồng này tăng lần đầu tiên trong 5 phiên với sự hỗ trợ từ sự mạnh lên của đồng real Brazil so với đồng USD. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 3,3 USD hay 1% lên 342,1 USD/tấn. Tobin Gorey, nhà phân tích tại ngân hàng Commonwealth của Australia cho biết "chúng tôi đang tìm kiếm làn sóng mua vào thứ hai và có thể lớn hơn từ động lực của nhà đầu tư".
Giá cao su hồi phục mặc dù nguồn cung vẫn gia tăng. Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), nơi thiết lập giá cao su tham chiếu cho Đông Nam Á, phục hồi sau khi giảm mạnh trong phiên trước trong lúc căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ ảnh hưởng tới tâm lý trên thị trường. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 11 đóng cửa tăng 2,3 yên lên 176,0 yên/kg. Hợp đồng cao su Thượng Hải kỳ hạn tháng 9 tăng 45 NDT đóng cửa tại 10.350 NDT/tấn.
Chuyên gia phân tích Li Dongling tại công ty First Futures cho biết các yếu tố cơ bản vẫn yếu nhưng giá cao su đã giảm quá nhiều vì thế chúng cần phục hồi, ông không nghĩ sự tăng giá sẽ duy trì trong thời gian dài.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

66,22

+1,15

+1,28%

Dầu Brent

USD/thùng

74,74

-0,34

-0,43%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

47.920,00

-270,00

-0,56%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,97

+0,01

+0,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

202,28

-0,07

-0,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

210,42

-0,29

-0,14%

Dầu khí

USD/tấn

642,75

-4,50

-0,70%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

65.470,00

-310,00

-0,47%

Vàng New York

USD/ounce

1.269,60

-4,90

-0,38%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.499,00

-7,00

-0,16%

Bạc New York

USD/ounce

16,27

-0,03

-0,21%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,30

+0,40

+0,69%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

869,57

-0,76

-0,09%

Palladium giao ngay

USD/ounce

966,65

+0,96

+0,10%

Đồng New York

US cent/lb

307,15

+0,95

+0,31%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.773,00

-67,00

-0,98%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.166,00

-5,00

-0,23%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.995,00

-7,00

-0,23%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.650,00

+275,00

+1,35%

Ngô

US cent/bushel

363,00

-0,75

-0,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

499,50

+0,25

+0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

239,75

+1,25

+0,52%

Gạo thô

USD/cwt

10,46

+0,05

+0,48%

Đậu tương

US cent/bushel

909,75

-0,75

-0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

335,40

+0,60

+0,18%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,05

+0,01

+0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

507,30

-1,00

-0,20%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.553,00

+100,00

+4,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

116,65

+0,25

+0,21%

Đường thô

US cent/lb

12,19

+0,06

+0,49%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

159,20

-0,15

-0,09%

Bông

US cent/lb

84,75

+0,57

+0,68%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

532,00

+3,80

+0,72%

Cao su TOCOM

JPY/kg

175,60

-0,40

-0,23%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

+0,01

+0,64%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg