menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 29/8/2019: Giá vàng giảm; dầu, cà phê, đậu tương đi lên

10:58 29/08/2019

Vinanet -Phiên 28/8/2019 trên thị trường quốc tế (kết thúc vào rạng sáng 29/8/2019 giờ VN), giá nhiều mặt hàng chủ chốt tăng so với phiên trước.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi số liệu chính thức cho thấy tồn trữ dầu thô hàng tuần của Mỹ giảm mạnh.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 10/2019 đã tăng 0,85 USD lên 55,78 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao cùng kỳ hạn cũng tăng 0,98 USD lên 60,49 USD/thùng tại London.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, trong tuần kết thúc vào ngày 23/8 tồn trữ dầu thô thương mại của Mỹ (không tính các kho dự trữ dầu khí chiến lược) đã giảm 10 triệu thùng xuống 427,8 triệu thùng so với tuần trước. Hiện lượng dự trữ dầu của Mỹ ở mức trung bình cùng thời điểm 5 năm trước đây. Tồn trữ xăng của nước này cũng giảm 2,1 triệu thùng, nhiều gấp gần 3 lần mức 388.000 thùng mà các nhà phân tích dự báo. Như vậy, tồn trữ dầu thô của nước này đã giảm khoảng 1/5 từ mức cao nhất năm 2019 đạt tới vào tháng 4/2019. Tồn trữ xăng dầu Mỹ giảm đã làm thị trường dịu bớt lo ngại về việc nhu cầu yếu.
Morgan Stanley ngày hôm qua đã hạ dự báo về giá dầu Brent từ nay tới cuối năm xuống còn khoảng 60 USD/thùng, từ mức 65 USD đưa ra trước đây, và dầu WTI từ 58 USD xuống 55 USD/thùng, do kém lạc quan về tăng trưởng nhu cầu dầu trong năm nay và năm tới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giữa bối cảnh đồng USD mạnh lên và các nhà đầu tư bán chốt lời, sau khi giá kim loại quý này tăng hơn 1% trong phiên trước.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống còn 1.541,20 USD/ounce, sau khi đầu sáng vọt lên 1.554,56 USD/ounce, mức cao nhất kể từ tháng 4/2013 trong phiên 26/8/2019. Trong khi đó, giá vàng giao kỳ hạn giảm 0,2% xuống 1.549,10 USD/ounce.
Dù vậy, sự bất ổn xoay quanh cuộc thương chiến Mỹ-Trung cũng như triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm là những nhân tố "giữ" vàng gần mức đỉnh trong nhiều năm.
David Meger, Giám đốc phụ trách giao dịch kim loại tại High Ridge Futures, cho rằng thị trường không nhận thêm được bất kỳ thông tin gây căng thẳng nào, sau nhiều diễn biến trong những phiên gần đây như cuộc chiến thương mại và mối lo ngại về tình hình kinh tế. Thêm vào đó, sự tăng giá của đồng bạc xanh cũng gây áp lực lên vàng. Đồng USD đã tăng 0,2%, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tuy nhiên, Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cao cấp tại RJO Futures, cho rằng đà giảm của giá vàng sẽ không kéo dài, khi kim loại quý này vẫn tỏ ra hấp dẫn người mua, trước diễn biến của đường cong lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ và chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Các chuyên gia cho biết môi trường lãi suất thấp hơn sẽ làm giảm chi phí nắm giữ vàng, đồng thời gây sức ép đối với đồng USD, khiến giá vàng thấp hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc nhìn chung tiếp tục diễn biến sát với xu hướng giá vàng từ đầu năm tới nay. Phiên vừa qua, bạc giao nay tăng 1,2% lên 18,38 USD/ounce, mức cao nhất kể từ tháng 4/2017. Các nhà phân tích của Commerzbank cho biết: “Hiện không có nhiều cơ sở cho thấy nhu cầu vàng và bạc sẽ giảm xuống”.
Giá bạch kim tăng 4,8% trong phiên vừa qua, lên 907 USD/ounce, cao nhất kể từ 22/4/2019; palađi giảm 0,8% xuống 1.469,6 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương tại Chicago tăng trong phiên vừa qua do thiếu chắc chắn về quy mô vụ thu hoạch mùa Thu cũng như lo ngại rằng giá đã giảm quá sâu.
Sau khi ngô chạm mức thấp nhất hơn 3 tháng và đậu tương thấp nhất hơn 2 tháng lúc đầu phiên, giá ngô đã đảo chiều tăng và khép phiên cộng thêm 1,5% lên 3,71 USD/bushel, trong khi đậu tương tăng 0,7% lên 8,65-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô trên sàn New York đầu phiên vừa qua đã chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10/2018, là 11,09 US cent/lb, sau đó đảo chiều đi lên nhờ giá năng lượng tăng và đồng real mạnh lên.
Đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 tăng 0,13 US cent tương đương 1,2% vào lúc đóng cửa, lên 11,37 US cent/lb, trong khi đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn London cũng tăng 3,10 USD tương đương 1% lên 309,20 USD/tấn.
Tuy nhiên, nguồn cung từ Ấn Độ sắp tới có thể tăng lên và gây áp lực lên giá. Ấn Độ vừa thông báo sẽ trợ cấp 10.448 rupee (146,14 USD)/tấn đường xuất khẩu trong nỗ lực bán 6 triệu tấn đường ra nước ngoài. Như vậy, Ấn Độ vẫn trợ cấp đường bất chấp một số nước sản xuất khác như Brazil và Australia kiện lên WTO.
Gía cà phê arabica trên sàn New York tăng 0,4 US cent tương đương 0,4% trong phiên vừa qua, lên 97,55 US cent /lb, do thời tiết chuyển xấu ở Brazil, mặc dù nguồn cung từ nước này hiện tại vẫn đang dồi dào. Robusta trên sàn London cũng theo xu hướng tăng, thêm 12 USD tương đương 0,9% lên 1.351 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức cao nhất gần 1 tháng là 1.368 USD/tấn bởi thông tin tồn trữ cuối vụ ở Việt Nam sụt giảm.
Với mặt hàng cacao, hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York giảm 4 USD tương đương 0,2% xuống 2.243 USD/tấn, sau khi có lúc đạt mức cao nhất 2 tuần ở phiên trước; trong khi đó trên sàn London giá vững ở 1.716 GBP/tấn. Thời tiết ở khu vực Tây Phi tiếp tục được cải thiện, tuần qua đã có mưa trên mức trung bình, làm giảm bớt tình trạng khô hạn.
Giá cao su trên thị trường Tokyo giảm vào cuối phiên vừa qua do các nhà đầu tư bán kiếm lời sau khi giá tăng lúc đầu phiên và đồng JPY mạnh lên so với USD.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 2/2019 trên sàn TOCOM giảm 1,6 JPY tương đương 0,1% xuống 162,2 JPY (1,54 USD)/kg; đầu phiên có lúc đạt mức cao 167,4 JPY.
Trên sàn Thượng Hải, hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 155 CNY lên 11.680 CNY (1.647 USD)/tấn.
Một số nhà đầu tư cho rằng giá ở Thượng Hải đã chạm đáy và bắt đầu hồi phục do các chương trình kích thích của Chính phủ Trung Quốc, trong đó có việc khuyến khích người dân mua ô tô.
Cụ thể, Trung Quốc ngày 27/8/2019 đã thông báo các biện pháp thúc đẩy tiêu dùng, trong đó có việc có thể xóa bỏ những hạn chế trong việc mua ô tô, giữa bối cảnh nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang bấp bênh do cuộc chiến thương mại với Mỹ ngày càng căng thẳng.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,78

+0,85

+55,78%

Dầu Brent

USD/thùng

60,49

+0,98

+1,65%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

36.850,00

+240,00

+0,66%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,25

+0,05

+2,23%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

170,17

+1,93

+1,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

185,33

+0,23

+0,12%

Dầu khí

USD/tấn

569,50

+16,00

+2,89%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

54.650,00

+40,00

+0,07%

Vàng New York

USD/ounce

1.547,30

-1,80

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.235,00

+10,00

+0,19%

Bạc New York

USD/ounce

18,42

-0,04

-0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

-0,10

-0,16%

Bạch kim

USD/ounce

903,72

+1,85

+0,21%

Palađi

USD/ounce

1.473,07

-0,69

-0,05%

Đồng New York

US cent/lb

256,85

+0,40

+0,16%

Đồng LME

USD/tấn

5.690,00

+7,00

+0,12%

Nhôm LME

USD/tấn

1.746,00

-15,00

-0,85%

Kẽm LME

USD/tấn

2.257,00

-18,00

-0,79%

Thiếc LME

USD/tấn

15.750,00

0,00

0,00%

Ngô

US cent/bushel

371,00

+4,75

+1,30%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

475,25

-1,50

-0,31%

Lúa mạch

US cent/bushel

264,75

-2,25

-0,84%

Gạo thô

USD/cwt

11,65

+0,19

+1,66%

Đậu tương

US cent/bushel

865,75

+6,50

+0,76%

Khô đậu tương

USD/tấn

299,70

+2,70

+0,91%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,45

+0,10

+0,35%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

447,90

+1,50

+0,34%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.243,00

-4,00

-0,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,55

+0,40

+0,41%

Đường thô

US cent/lb

11,37

+0,13

+1,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

104,85

+2,60

+2,54%

Bông

US cent/lb

58,73

+0,81

+1,40%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

379,30

+11,10

+3,01%

Cao su TOCOM

JPY/kg

162,50

+0,30

+0,19%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

+0,02

+1,74%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters