menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 30/10/2019: Giá vàng, đường và cà phê giảm

13:24 30/10/2019

Vinanet - Phiên 29/10/2019 trên thị trường quốc tế (kết thúc vào rạng sáng 30/10/2019 giờ VN), giá dầu biến động thất thường trong khi một số mặt hàng khác đi xuống.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu diễn biến trái chiều trong bối cảnh các nhà đầu tư hướng sự chú ý vào tiến trình đàm phán để ký kết thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn London tăng 2 US cent lên 61,59 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 27 US cent xuống 55,54 USD/thùng.
Theo một quan chức Mỹ, nước này và Trung Quốc đang tiếp tục nghiên cứu và thảo luận về một thỏa thuận thương mại “tạm thời”, song có thể không kịp hoàn tất để lãnh đạo hai nước có thể ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) diễn ra trong tháng 11/2019 tại Chile. Tuyên bố trước đó của Nhà Trắng cho hay Tổng thống Mỹ và Chủ tịch Trung Quốc dự kiến ký kết “Giai đoạn 1” của thỏa thuận thương mại song phương tại hội nghị này đã làm dấy lên sự lạc quan trong giới đầu tư dầu mỏ.
Trong khi đó, theo kết quả một cuộc thăm dò ý kiến do hãng tin Reuters tiến hành, tồn trữ các sản phẩm dầu lọc của Mỹ tiếp tục giảm trong trong tuần qua khi các nhà máy lọc dầu ở nước này vẫn hoạt động cầm chừng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho hay, các nhà máy lọc dầu của Mỹ đã giảm công suất hoạt động trong tháng 9/2019 để bảo dưỡng định kỳ, và hiện duy trì công suất hoạt động ở mức 85% trong tuần kết thúc vào ngày 18/10. Theo dự kiến, EIA sẽ công bố báo cáo về sản lượng dầu hàng tuần của Mỹ trong ngày 30/10.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần giữa lúc giới đầu tư lạc quan về triển vọng đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nên giảm sự quan tâm tới tài sản an toàn như vàng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.487,54 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 12/2019 giảm 0,3% xuống 1.490,70 USD/ounce.
Các nhà đầu tư vàng tiếp tục theo dõi phản ứng của thị trường trước cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) diễn ra trong hai ngày 29-30/10.
Ông Chris Gaffney, quan chức phụ trách các thị trường thế giới của TIAA Bank, cho biết giá vàng vẫn giảm do tình hình chung trên thị trường vẫn tích cực trước diễn biến mới đây của tiến trình đàm phán thương mại Mỹ-Trung và tiến trình nước Anh rời Liên minh châu Âu (EU), còn gọi là Brexit. Ngoài ra, ông Gaffney dự kiến việc Fed cắt giảm lãi suất sẽ đẩy giá vàng tăng trở lại lên trên 1.500 USD/ounce.
Theo dự đoán của giới phân tích, 94% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản sau cuộc họp trong hai ngày 29-30/10. Fed đã hạ lãi suất 2 lần kể từ đầu năm 2019 đến nay.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel tăng do nước sản xuất hàng đầu – Indonesia – sẽ tạm ngừng xuất khẩu quặng trước lệnh cấm có hiệu lực vào năm tới.
Giá nickel kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,1% lên 16.830 USD/tấn. Từ đầu năm đến nay giá nickel tăng hơn 50%. Tuy nhiên, nhu cầu từ ngành công nghiệp thép Trung Quốc suy yếu có thể khiến giá nickel giảm xuống khoảng 15.000 USD/tấn vào cuối năm tới, Kieran Clancy, nhà phân tích kinh tế thuộc Capital Economics cho biết.
Giá quặng sắt tại Đại Liên và Singapore giảm do lo ngại về nhu cầu nguyên liệu sản xuất thép tại Trung Quốc, nước sản xuất và cung cấp thép hàng đầu thế giới, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu suy yếu.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên cuối phiên giảm 1,7% xuống 622 CNY (88,14 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất gần 2 tuần trong phiên trước đó. Nguyên nhân chính do dự trữ quặng sắt nhập khẩu tại các cảng của Trung Quốc trong tuần trước tăng lên mức cao nhất 6 tháng (134,1 triệu tấn), gây áp lực tới giá, công ty tư vấn SteelHome cho biết. Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 9/2019 tăng tháng thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất 20 tháng và không có dấu hiệu chậm lại, vượt 100 triệu tấn trong tháng 10/2019, do xuất khẩu từ các công ty khai thác quặng lớn duy trì ổn định.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Singapore ở mức thấp 78,7 USD/tấn, trong khi giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,5% xuống 81,32 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,2%, giá thép cuộn cán nóng tăng 0,2%, trong khi giá thép không gỉ giảm 0,5% do giá nickel trên sàn Thượng Hải và London giảm. Sản lượng thép thô toàn cầu trong tháng 9/2019 giảm 0,3% so với tháng 9/2018, lần giảm đầu tiên trong 41 tháng, do nền kinh tế toàn cầu chậm lại, Yoshihisa Kitano, chủ tịch Liên đoàn Sắt và Thép Nhật Bản cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm trở lại từ mức cao nhất 2 tuần trong phiên trước đó do đồng real Brazil suy yếu. Cà phê cũng giảm.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,2 US cent tương đương 1,6% xuống 12,34 US cent/lb, 1 ngày sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần (12,59 US cent/lb). Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London giảm 2,3 USD tương đương 0,7% xuống 338,5 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE giảm 1,55 US cent tương đương 1,54% xuống 98,95 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 1,018 USD/lb, cao nhất kể từ ngày 4/10/2019. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London giảm 1 USD tương đương 0,1% xuống 1.276 USD/tấn.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2019 có khả năng giảm 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống 1,365 triệu tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng hơn 1% do các loại dầu khác trên sàn Đại Liên tăng, song số liệu nhập khẩu của EU suy yếu và đồng ringgit tăng mạnh đã hạn chế đà tăng.
Trên sàn Bursa Malaysia, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 1,3% lên 2.430 ringgit (581,34 USD)/tấn. Đây là phiên tăng thứ 5 liên tiếp.
Đối với mặt hàng cao su, giá tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải. Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM giảm 0,2 JPY (0,0018 USD) xuống 170,2 JPY/kg và giá cao su TSR20 giao cùng kỳ hạn ở mức 148,9 JPY/kg. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 20 CNY (2,83 USD) xuống 11.790 CNY/tấn và giá cao su TSR20 giảm 15 CNY xuống 9.945 CNY/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,54

-0,27

 

Dầu Brent

USD/thùng

61,59

+0,02

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.330,00

-90,00

-0,23%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,60

+0,15

+6,17%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

169,00

+0,43

+0,26%

Dầu đốt

US cent/gallon

195,24

-0,39

-0,20%

Dầu khí

USD/tấn

588,00

-3,25

-0,55%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.030,00

+130,00

+0,24%

Vàng New York

USD/ounce

1.490,50

-0,20

-0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.196,00

-15,00

-0,29%

Bạc New York

USD/ounce

17,77

-0,06

-0,34%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,30

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

920,75

-0,20

-0,02%

Palađi

USD/ounce

1.782,97

+1,50

+0,08%

Đồng New York

US cent/lb

268,25

-0,90

-0,33%

Đồng LME

USD/tấn

5.927,50

+19,50

+0,33%

Nhôm LME

USD/tấn

1.754,00

+17,00

+0,98%

Kẽm LME

USD/tấn

2.544,00

+0,50

+0,02%

Thiếc LME

USD/tấn

16.850,00

+125,00

+0,75%

Ngô

US cent/bushel

388,00

+1,75

+0,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

513,00

+1,50

+0,29%

Lúa mạch

US cent/bushel

300,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

11,93

+0,09

+0,76%

Đậu tương

US cent/bushel

935,75

+2,25

+0,24%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,00

+1,00

+0,33%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,02

+0,02

+0,06%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

460,60

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.524,00

+20,00

+0,80%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

98,95

-1,55

-1,54%

Đường thô

US cent/lb

12,34

-0,20

-1,59%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,85

-0,30

-0,31%

Bông

US cent/lb

64,81

+0,09

+0,14%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

410,00

+3,10

+0,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

172,30

+2,10

+1,23%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

-0,01

-0,49%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg