menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 8/8/2019: Giá dầu và vàng tiếp tục trái chiều

11:40 08/08/2019

Vinanet -Phiên 7/8/2019 trên thị trường quốc tế (kết thúc vào rạng sáng 8/8/2019 giờ VN), giá dầu tiếp tục giảm trong khi vàng tiếp tục tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do tồn trữ của Mỹ bất ngờ tăng trong bối cảnh tiếp tục có những lo ngại về việc nhu cầu năng lượng của toàn cầu yếu đi.
Kết thúc phiên, dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2019 giảm 2,54 USD, xuống 51,09 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao tháng 10/2019 giảm 2,71 USD, xuống 56,23 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ngày 7/8 cho biết, trong tuần kết thúc ngày 2/8, dự trữ dầu thô thương mại của Mỹ đã tăng 2,4 triệu thùng so với tuần trước đó. Với 438,9 triệu thùng hiện nay, lượng dầu dự trữ của Mỹ tăng khoảng 2% so với mức trung bình của 5 năm qua. Đồng thời, dự trữ xăng của Mỹ tăng 4,4 triệu thùng và các sản phẩm chưng cất tăng 1,5 triệu thùng, cả 2 nhiên liệu này tại khu vực Vịnh đều đạt mức cao nhất thời điểm này trong năm. Đáng chú ý hơn, lượng dầu thô mà Mỹ nhập khẩu trong tuần trước đạt trung bình 7,1 triệu thùng/ngày, tăng 485.000 thùng/ngày so với tuần trước đó.
Các nhà đầu tư tiếp tục theo sát những căng thẳng đang tiếp diễn giữa Iran và Mỹ, vốn đã làm giảm sút lòng tin của nhà đầu tư và làm gia tăng những lo ngại về nguy cơ suy giảm nhu cầu năng lượng toàn cầu.
Liên hợp quốc (LHQ) ngày 7/8 cho hay Iran đã gửi thư tới Hội đồng Bảo an LHQ đề nghị ngăn chặn các biện pháp trừng phạt mới của Mỹ. Theo một phát ngôn viên của LHQ, Tổng thư ký Antonio Guterres đã kêu gọi các bên không nên có bất kỳ hành động nào làm leo thang căng thẳng.
Tuy nhiên, giá dầu giảm được hạn chế bởi các quan chức của Saudi Arabia đang xem xét tất cả các lựa chọn nhằm ngăn chặn sự suy giảm giá dầu và họ cho rằng giá dầu giảm do lo ngại suy giảm kinh tế, chứ không phải do dư cung dầu thô.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm trở lại xuống mức thấp nhất 38 tháng, theo xu hướng giá dầu thô giảm mạnh 5% và dự báo nhu cầu trong tuần tới ít hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn New York giảm 2,8 US cent tương đương 1,3% xuống 2,083 USD/mmBTU.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce nhờ nhu cầu đối với tài sản an toàn như vàng tăng mạnh.
Cuối phiên vừa qua, vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 35,40 USD (2,39%) lên 1.519,60 USD/ounce. Như vậy, giá vàng kỳ hạn đã tăng gần 90 USD trong bốn phiên liên tiếp sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẽ áp đặt mức thuế bổ sung 10% lên lượng hàng hóa xuất khẩu trị giá 300 tỷ USD của Trung Quốc từ ngày 1/9 tới.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 9/2019 cũng tăng 75,1 US cent (4,57%) lên 17,196 USD/ounce; bạch kim giao tháng 10/2019 đã tăng 17,80 USD (2,09%) lên 871 USD/ounce.
Căng thẳng thương mại leo thang giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới Mỹ và Trung Quốc đã đẩy nhu cầu đối với các tài sản an toàn như vàng tăng mạnh. Giới đầu tư đã tránh xa các tài sản rủi ro để chuyển sang giữ vàng.
Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác, đã giảm 0,18% xuống 97,45 ngay trước khi thị trường vàng đóng cửa. Khi đồng USD giảm giá, giá vàng kỳ hạn thường tăng vì vàng được định giá bằng đồng USD trở nên rẻ hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các đồng tiền khác.
Trong một diễn biến liên quan, các ngân hàng trung ương New Zealand, Ấn Độ và Thái Lan đều tuyên bố cắt giảm lãi suất vào ngày 7/8. Theo các nhà phân tích thị trường, việc nới lỏng chính sách tiền tệ ở nhiều quốc gia khác nhau đã làm tăng mối lo ngại về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu, do đó sẽ hỗ trợ tốt cho giá vàng.
Theo một chuyên gia kinh tế từ ngân hàng Singapore hàng đầu, với một loạt các yêu tố bất ổn trên thị trường thế giới, giá vàng sẽ duy trì đà tăng mạnh mẽ trong ít nhất 6 - 12 tháng tới.
"Thế giới đang trong tình trạng bất ổn và vàng sẽ hưởng lợi từ đó", ông Howei Lee, chuyên giá kinh tế tại Oversea-Chinese Banking Corporation cho biết.
Hôm 6/8, ông Lee nhận định giá vàng sẽ sớm vượt ngưỡng 1.500 USD. Ông cho biết thêm một loạt rủi ro đã thúc đẩy vàng lên cao nhất trong hơn 6 năm, và khiến giới đầu tư loại bỏ tài sản rủi ro khỏi danh mục đầu tư. Nói cách khác, các nhà đầu tư đang không chắc về xu hướng kinh tế toàn cầu trong ngắn hạn và có thể hướng tới những tài sản rủi ro thấp.
Trong số những rủi ro thúc đẩy mua vào vàng, ông Lee cho hay đợt thuế quan Mỹ mới nhất áp lên hàng hóa Trung Quốc sẽ là đặc biệt có hại đối với kinh tế toàn cầu vì một lượng lớn hàng hóa bị ảnh hưởng liên quan trực tiếp tới người tiêu dùng.
Khi được hỏi về cơ hội của những kim loại khác, như vàng hoặc bạc kim, với cùng xu hướng tăng giá, ông Lee dự đoán vàng sẽ vẫn vượt trội.
"Vàng sẽ vượt trội so với toàn bộ kim loại quí vì nó vốn là tài sản trú ẩn an toàn", ông Lee cho hay.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trở lại sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump bác bỏ lo ngại chiến tranh thương mại kéo dài với Trung Quốc, song 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới không đạt được thỏa thuận thương mại khiến giá đồng vẫn ở gần mức thấp nhất kể từ năm 2017. Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế do dự trữ đồng tại London tăng hơn gấp đôi trong năm nay lên 277.975 tấn và tại Thượng Hải tăng 40% lên 155.971 tấn.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,4% lên 5.703 USD/tấn, song vẫn gần mức thấp nhất 2 năm (5.640 USD/ounce).
Giá nhôm tại London giảm 0,8% xuống 1.745 USD/tấn xuống thấp nhất 2 tháng. Giá thiếc tại London giảm 1,4% xuống 16.755 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 6/2016.
Giá quặng sắt tại Đại Liên giảm phiên thứ 5 liên tiếp xuống mức thấp nhất 6 tuần, trong bối cảnh nguồn cung gia tăng và nhu cầu suy yếu. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 5,4% xuống 660,5 CNY/tấn, trong phiên có lúc giảm 5,7% xuống 658 CNY (93,46 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 26/6/2019. Tính từ đầu tháng 8/2019 đến nay giá quặng sắt giảm hơn 12%.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 0,9% xuống 3.711 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 18/6/2019. Giá thép cán nóng giảm 0,7% xuống 3.657 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 19/6/2019.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê giảm do Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) dự báo tăng sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2018/19.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE giảm 0,3 US cent tương đương 0,3% xuống 96,75 US cent/lb. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 6 USD tương đương 0,5% xuống 1.301 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) nâng dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2018/19 lên 168,77 triệu bao (60kg/bao) từ mức 167,75 triệu bao dự báo trước đó.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 0,11 US cent tương đương 0,9% xuống 11,62 US cent/lb, thấp nhất 2 tuần (11/66 US cent/lb). Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 2,5 USD tương đương 0,8% xuống 313,7 USD/tấn.
Giá ngô và đậu tương tại Mỹ tăng do dự báo thời tiết xấu khu vực Trung Tây Mỹ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Giá ngô kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 1-1/2 US cent tương đương 0,6% lên 4,14 USD/bushel.
Giá đậu tương kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 1 US cent tương đương 0,2% lên 8,66-3/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm và xuống dưới mức cao nhất 10 tuần trong phiên trước đó, theo xu hướng giá dầu đậu tương tại Chicago suy giảm. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,05% xuống 2.101 ringgit (500,95 USD)/tấn. Trong phiên trước đó, giá dầu cọ tăng lên 2.108 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 29/5/2019.
Ngoài ra, giá dầu cọ chịu áp lực giảm do dự trữ dầu cọ tại Malaysia tăng lần đầu tiên trong 5 tháng, lên cao nhất 3 tháng do sản lượng tăng vượt xuất khẩu. Dự trữ trong tháng 8/2019 được dự báo sẽ tăng 1,8% so với tháng 7/2019 lên 2,47 triệu tấn, trong khi sản lượng sẽ tăng 11,4% lên 1,69 triệu tấn, cao nhất kể từ tháng 1/2019 và thiết lập tháng tăng mạnh nhất trong 10 tháng.
Giá bông tại Mỹ giảm xuống quanh mức thấp nhất 3,5 năm do lo ngại về cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Bông hợp đồng tháng 12/2019 giảm 0,77 US cent tương đương 1,31% xuống 57,59 US cent/lb.
Giá bông tại Ấn Độ, tốc độ xuất khẩu bông sợi chậm và nhập khẩu bông tăng đang gây áp lực nặng nề lên giá bông trong nước, và giá có thể giảm xuống dưới mức hỗ trợ tối thiểu (MSP) do chính phủ qui định, bắt đầu từ lô hàng mới trên thị trường trong tháng 10 trở đi, khi các nhà sản xuất lớn ở Brazil và Mỹ dự kiến đạt một vụ mùa bội thu trong khi xuất khẩu từ Ấn Độ đã hạ nhiệt.
Giá bông Ấn Độ đã giảm hơn 3% trong tháng 7 do nhập khẩu giá rẻ và xuất khẩu sợi sang Trung Quốc rất chậm chạp. Giá bông 29 mm từ Gujarat giao ngay đã giảm từ 45.000 Rupee/candy ghi nhận vào ngày 29/6 xuống còn 43.500 Rupee. Mỗi candy có khối lượng 35 kg. Ông Rajpal, giám độc điều hành của Manjeet Cotton cho biết giá bông đã giảm nhẹ do nhu cầu bông đi xuống khi xuất khẩu sợi bị đình trệ.
Theo ông G Radhakrishnan, chủ tịch của Hiệp hội bông Ấn Độ, lượng tiêu thụ bông giảm đáng kể nhưng nhập khẩu bông vẫn tăng khi dự kiến sẽ chạm 2,7 triệu kiện (mỗi kiện 170 kg) và các hợp đồng nhập khẩu vẫn đang được kí kết.
Giá cao su tại Tokyo tăng theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 1,1 JPY (0,0104 USD) lên 167 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 2 JPY lên 144 JPY/kg. Đồng thời giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 90 CNY (12,79 USD) lên 11.495 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

51,09

-2,54

Dầu Brent

USD/thùng

56,23

-2,71

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.520,00

-640,00

-1,77%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,10

+0,02

+0,96%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

165,26

+3,23

+1,99%

Dầu đốt

US cent/gallon

178,33

+3,01

+1,72%

Dầu khí

USD/tấn

543,00

+9,25

+1,73%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.210,00

-940,00

-1,74%

Vàng New York

USD/ounce

1.504,30

+15,30

+1,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.092,00

+27,00

+0,53%

Bạc New York

USD/ounce

17,07

-0,13

-0,73%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,30

+1,10

+1,92%

Bạch kim

USD/ounce

860,88

-3,84

-0,44%

Palađi

USD/ounce

1.419,83

+1,49

+0,11%

Đồng New York

US cent/lb

259,65

+2,55

+0,99%

Đồng LME

USD/tấn

5.705,00

+22,00

+0,39%

Nhôm LME

USD/tấn

1.745,00

-14,00

-0,80%

Kẽm LME

USD/tấn

2.261,00

-49,00

-2,12%

Thiếc LME

USD/tấn

16.755,00

-245,00

-1,44%

Ngô

US cent/bushel

414,00

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

488,25

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

268,50

+1,50

+0,56%

Gạo thô

USD/cwt

11,40

+0,03

+0,22%

Đậu tương

US cent/bushel

866,50

-0,25

-0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,10

+0,10

+0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,33

-0,04

-0,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

448,90

-0,50

-0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.266,00

-37,00

-1,61%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

96,90

-0,15

-0,15%

Đường thô

US cent/lb

11,34

-0,39

-3,32%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

101,00

-1,90

-1,85%

Bông

US cent/lb

58,85

+0,02

+0,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

358,00

-11,60

-3,14%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,70

+0,70

+0,42%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

-0,01

-0,63%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters