menu search
Đóng menu
Đóng

TT hàng hóa quốc tế phiên 11/11: Giá dầu tăng, vàng giảm

13:21 12/11/2020

Phiên giao dịch vừa qua, giá hàng hóa tiếp tục biến động. Thị trường vẫn có tác động tích cực từ thông tin về vắc-xin.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu Brent chạm mức cao nhất trong hơn 2 tháng, vượt 45 USD/thùng trong phiên giao dịch 11/11 do hy vọng phát triển thành công vắc-xin ngừa COVID-19 sẽ làm nhu cầu dầu mỏ phục hồi.
Kết thúc phiên giao dịch này, dầu Brent tăng 19 US cent (0,4%) lên 43,80 USD/thùng. Trước đó, có thời điểm giá dầu này đã lên mức cao nhất trong phiên là 45,30 USD/thùng - lần đầu tiên vượt ngưỡng 45 USD/thùng kể từ đầu tháng 9/2020. Trong khi đó, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) cũng tăng 9 US cent Mỹ lên 41,45 USD/thùng, sau khi lập mức cao nhất trong phiên là 43,06 USD/thùng.
Cả hai loại dầu Brent và WTI đều tăng giá khoảng 11% trong tuần này sau khi công ty dược phẩm BioNTech và hãng dược đối tác Pfizer của Mỹ công bố kết quả thử nghiệm vắc-xin ngừa COVID-19 cho thấy loại vắc-xin do hai công ty này hợp tác phát triển đã đạt hiệu quả 90%.
Chuyên gia John Kilduff tại trung tâm Again Capital, cho rằng kỳ vọng vắc-xin có hiệu quả có khả năng khôi phục nhu cầu về nhiên liệu. Các biện pháp giãn cách xã hội ở châu Âu và Mỹ để phòng chống COVID-19 đã làm chậm quá trình phục hồi nhu cầu nhiên liệu, nhưng sự phục hồi ở các nền kinh tế châu Á, nơi mức tiêu thụ gần như đã trở lại mức trước dịch COVID-19.
Các hạn chế mới ở Châu Âu và Mỹ để chống lại virus corona đã làm chậm quá trình phục hồi nhu cầu nhiên liệu, bù lại sự phục hồi ở các nền kinh tế Châu Á, nơi mức tiêu thụ gần như đã trở lại mức trước Covid.
Giá dầu cũng được hỗ trợ nhờ dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 5,1 triệu thùng trong tuần trước xuống còn khoảng 482 triệu thùng. Mức giảm này lớn hơn nhiều so với mức dự báo giảm 913.000 thùng của các nhà phân tích tham gia cuộc khảo sát của hãng tin Reuters.
Bộ trưởng Năng lượng Algeria cho biết Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh (OPEC+) có thể kéo dài thời gian cắt giảm sản lượng dầu mỏ đến năm 2021, hoặc thậm chí lâu hơn nữa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm gần 1% do đồng USD mạnh lên, trong khi đó sự lạc quan về loại vắc-xin ngừa COVID-19 đã làm dấy lên hy vọng về sự phục hồi kinh tế nhanh, qua đó thúc đẩy giới đầu tư tìm đến những tài sản rủi ro hơn.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.864,38 USD/ounce; vàng kỳ hạn giảm 0,8% xuống 1.861,60 USD/ounce.
Chiến lược gia thị trường cấp cao Bob Haberkorn thuộc RJO Futures nhận xét giá vàng chịu tác động bởi hai yếu tố gồm đồng USD và chứng khoán mạnh lên, do vậy rất khó để vàng tiếp tục đi lên. Sự hỗ trợ cho các kim loại quý mà có được trong tuần trước sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đã biến mất giữa bối cảnh thông tin về vắc-xin ngừa COVID-19 chi phối thị trường.
Đồng USD đã tăng gần 0,3% lên gần mức cao của một tuần, khiến giá vàng trở nên đắt đỏ hơn cho những người mua bằng các đồng tiền khác.
Ngoài ra, tâm lý ưa rủi ro của các nhà đầu tư đã tăng lên khi triển vọng về tính hiệu quả của vắc xin ngừa COVID-19 đã "lấn át" những lo ngại về số ca mắc mới gia tăng. Tuy nhiên, điều đó cũng làm nổi bật những thách thức về logistic trong việc phân phối hàng triệu liều vắc-xin ngay khi chúng được tung ra.
Nhà phân tích Craig Erlam thuộc OANDA dự báo giá vàng sẽ giao dịch trong khoảng 1.850-1.860 USD/ounce và có thể chịu "tổn thương" trong ngắn hạn. Tuy nhiên, triển vọng của vàng trong dài hạn khá sáng sủa, dù đà phục hồi của kim loại quý này sẽ cần thời gian và cần nhiều sự hỗ trợ của chính phủ và các ngân hàng trung ương hơn.
Các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ngày 10/11 đã nhấn mạnh cần phải có thêm sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ. Giá vàng, đã tăng hơn 22% từ đầu năm đến nay, thường được hưởng lợi từ các biện pháp kích thích kinh tế của các ngân hàng trung ương trong bối cảnh kim loại quý này được coi là "kênh đầu tư an toàn" trong thời kỳ lạm phát và đồng tiền mất giá.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,1% lên 24,24 USD/ounce. Trong khi giá bạch kim giao ngay giảm 2% xuống 865,28 USD/ounce và giá palađi giảm tới 5,6% xuống 2.316,20 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo lắng về tăng trưởng và nhu cầu bởi lạc quan về vaccine đã mờ dần, trong khi đồng USD tăng giá đã củng cố tâm lý tiêu cực.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,5% xuống 6.894 USD/tấn.
Giá đồng đã tăng trên 7.050 USD/tấn trong ngày 9/11, mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 sau khi hãng dược Pfizer cho biết vaccine của họ đạt kết quả 90% theo thử nghiệm ban đầu.
Nhập khẩu kỷ lục của Trung Quốc trong năm nay đã giúp đồng tăng giá trong những tháng gần đây.
Quặng sắt Trung Quốc tiếp tục tăng phiên thứ 4 liên tiếp do triển vọng nhu cầu mạnh từ nước tiêu thụ hàng đầu thế giới và dự trữ ở mức thấp tại các nhà máy thép.
Tồn trữ quặng sắt và thiêu kết nhập khẩu của các nhà máy thép tính đến ngày 4/11 giảm 12,9% so với tháng trước đó, theo Tianfeng Futures thuộc công ty tư vấn Mysteel.
Công suất sản xuất các lò cao của 163 nhà máy thép Trung Quốc giảm xuống 83,88% trong tuần trước so với một tuần trước đó, song cao hơn so với 81,93% trong tháng 11/2019.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 1% lên 838 CNY/tấn, đóng cửa cao nhất kể từ ngày 15/9; quặng sắt hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc cũng tăng ngày thứ 4 liên tiếp và ở mức 121,5 USD/tấn trong ngày 10/11.
Thép thanh tại Thượng Hải giảm 0,1% xuống 3.843 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng sử dụng trong sản xuất giảm 0,4% xuống 3.948 CNY/tấn; thép không gỉ giảm 1,4% xuống 13.675 CNY/tấn.
Doanh số bán ô tô tại Trung Quốc tăng 12,5% trong tháng 10 so với cùng tháng năm trước, tháng thứ 7 tăng liên tiếp.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa giảm 0,19 US cent hay 1,3% xuống 14,49 US cent/lb; giá đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 1,3 USD hay 0,5% xuống 397,4 USD.
Các đại lý cho biết chiều giảm giá nên bị hạn chế khi các quỹ không thể thanh lý phần lớn vị thế mua vào của họ. Thị trường đường đợi các bình luận chính thức của chính phủ Ấn Độ về chính sách xuất khẩu đường, gồm khối lượng trợ cấp, điều này sẽ xác định nước này có thể xuất khẩu bao nhiêu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 1,8 US cent hay 1,7% lên 1,091 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 27 USD hay 2,0% lên 1.393 USD/tấn.
Giá cao su Nhật Bản tăng hơn 4% do các thị trường tài chính tiếp tục tăng bởi hy vọng ngày càng tăng về sự thành công của vacccine Covid-19 do công ty dược phẩm Pfizer phát triển.
Hợp đồng cao su giao tháng 4/2021 trên sàn giao dịch Osaka tăng 9,3 JPY hay 4,4% đóng cửa tại 219,9 JPY/kg; cao su tại Thượng Hải giao tháng 1/2021 tăng 0,7% lên 14.145 CNY/tấn.
Các thị trường chứng khoán tăng điểm do tin tức vaccine của Pfizer làm giảm lo lắng của nhà đầu tư về số ca nhiễm đang tăng tại Châu Âu và Mỹ.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/11

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,41

-0,04

-0,10%

Dầu Brent

USD/thùng

43,80

+0,19

+0,44%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

29.110,00

-170,00

-0,58%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,02

-0,01

-0,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

117,45

-0,14

-0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

124,26

-0,32

-0,26%

Dầu khí

USD/tấn

358,50

+7,50

+2,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

45.000,00

+570,00

+1,28%

Vàng New York

USD/ounce

1.861,90

+0,30

+0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.327,00

-51,00

-0,80%

Bạc New York

USD/ounce

24,27

0,00

-0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

81,60

-0,90

-1,09%

Bạch kim

USD/ounce

869,00

+0,37

+0,04%

Palađi

USD/ounce

2.330,60

+10,03

+0,43%

Đồng New York

US cent/lb

312,70

-0,70

-0,22%

Đồng LME

USD/tấn

6.885,00

-47,00

-0,68%

Nhôm LME

USD/tấn

1.918,00

+10,00

+0,52%

Kẽm LME

USD/tấn

2.624,00

-21,00

-0,79%

Thiếc LME

USD/tấn

18.200,00

-80,00

-0,44%

Ngô

US cent/bushel

427,00

-4,00

-0,93%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

598,00

-10,50

-1,73%

Lúa mạch

US cent/bushel

303,75

-3,50

-1,14%

Gạo thô

USD/cwt

12,44

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.152,50

+6,50

+0,57%

Khô đậu tương

USD/tấn

392,70

-2,10

-0,53%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,00

+1,00

+2,78%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

558,40

+9,90

+1,80%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.374,00

+17,00

+0,72%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,95

+1,95

+1,77%

Đường thô

US cent/lb

14,49

-0,19

-1,29%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

118,00

+0,80

+0,68%

Bông

US cent/lb

71,38

-0,27

-0,38%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

572,30

-8,00

-1,38%

Cao su TOCOM

JPY/kg

155,90

+3,70

+2,43%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

-0,03

-1,87%

 

 

Nguồn:VITIC/Reuters, Bloomberg