menu search
Đóng menu
Đóng

TT hàng hóa quốc tế phiên 15/10: Giá dầu và cà phê giảm, vàng tăng

13:06 16/10/2020

Phiên giao dịch vừa qua, giá hàng hóa biến động vừa phải.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khi các hạn chế mới nhằm ngăn chặn số ca lây nhiễm làm lu mờ triển vọng tăng trưởng kinh tế và nhu cầu năng lượng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giao kỳ hạn giảm 16 US cent (0,4%) xuống 43,16 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 8 US cent (0,2%) xuống 40,96 USD/thùng.
Các thương nhân dầu hàng đầu thế giới Vitol, Trafigura và Gunvor cho biết, nhu cầu dầu hồi phục chậm lại do đại dịch gia tăng. Tại Mỹ, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần trước tăng lên mức cao nhất 2 tháng. Trong khi ở châu Âu, một số quốc gia châu Âu đang tái áp đặt lệnh giới nghiêm và lệnh phong tỏa khi số ca lây nhiễm COVID-19 mới tăng cao, với việc Anh áp đặt các hạn chế COVID-19 cứng rắn ở London từ ngày 16/10. Theo ông Edward Moya, chuyên gia cấp cao tại OANDA ở New York, các lệnh phong tỏa trên sẽ làm giảm các dự báo về nhu cầu nhiên liệu trong ngắn hạn và sẽ buộc OPEC và các nước đồng minh, còn được gọi OPEC+, phải trì hoãn bất kỳ ý định nới lỏng cắt giảm sản lượng.
Tổng thư ký OPEC cho biết, nhu cầu dầu hồi phục chậm hơn so với dự kiến và OPEC+ sẽ đảm bảo giá dầu không giảm mạnh khi nhóm họp vào cuối tháng 11/2020.
Về thông tin liên quan, OPEC và các nước đồng minh đã thực hiện theo cam kết cắt giảm nguồn cung trong tháng Chín. Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) thông báo nhu cầu năng lượng của Mỹ tăng vào tuần trước, qua đó giúp giảm lượng dầu thô dự trữ. Trong khi đó, dự trữ sản phẩm chưng cất từ dầu thô cũng giảm mạnh nhất kể từ năm 2003 do cơn bão Delta đã làm giảm sản lượng khai thác và các nhà máy lọc dầu ở vịnh Mexico đóng cửa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đưa ra đề xuất mới về quy mô gói kích thích kinh tế bổ sung.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,3% lên 1.906,15 USD/ounce, vàng giao sau tăng 0,1% lên 1.908,90 USD/ounce.
Ông Trump ngày 15/10 cho biết ông đã chỉ đạo Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin nâng mức đề xuất gói kích thích kinh tế mới lên hơn 1.800 tỷ USD.
Edward Meir, nhà phân tích thuộc ED&F Man Capital Markets, nhận định hy vọng mới về gói kích thích kinh tế đã thúc đẩy giá vàng và giúp thị trường bỏ qua đà tăng của đồng USD. Bên cạnh đó, vàng còn nhận được hỗ trợ trước số liệu mới về thị trường việc làm Mỹ. Chuyên gia Jeffrey Sica, thuộc Sica Wealth Management, cho rằng thống kê về việc làm cho thấy Mỹ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và chính phủ nhiều khả năng sẽ phải can thiệp với những chương trình nới lỏng tiền tệ hơn.
Từ đầu năm tới nay, giá kim loại quý này đã tăng hơn 25%, nhờ những chương trình kích thích kinh tế chưa từng có của các chính phủ và ngân hàng trung ương trên toàn thế giới nhằm hỗ trợ các nền kinh tế hồi phục, giữa bối cảnh kim loại quý này được coi là công cụ chống lạm phát hữu hiệu và "nơi ẩn náu an toàn" trong thời kỳ bất ổn kinh tế và chính trị.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh, lấn át lo ngại các trường hợp nhiễm Covid-19 trên toàn cầu gia tăng sẽ làm giảm tăng trưởng toàn cầu.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,7% lên 6.763,5 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp 6.668 USD/tấn trong đầu phiên giao dịch. Tính đến nay, giá đồng tăng 50% kể từ mức thấp nhất 45 tháng trong tháng 3/2020.
Giá đồng đạt mức cao nhất hơn 2 năm trong ngày 21/9/2020 và kể từ đó dao động ở mức 6.300-6.900 USD/tấn.
Giá quặng sắt giảm mạnh xuống mức thấp mới 2 tuần, do tồn trữ tại các cảng của Trung Quốc tăng và nhu cầu sản phẩm thép suy yếu gây áp lực thị trường.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 2,2% xuống 787,5 CNY/tấn, trong đầu phiên giao dịch chạm 783,5 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 30/9/2020. Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn Singapore giảm 0,6% xuống 114,45 USD/tấn, giảm phiên thứ 4 liên tiếp.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,3%, thép cuộn cán nóng giảm 1,2%, trong khi giá thép không gỉ tăng 0,3%.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì tại Chicago tăng lên mức cao nhất 5 năm, khi cắt giảm triển vọng lúa mì Argentina và nguồn cung toàn cầu suy giảm do thời tiết khô tại một số nước sản xuất lúa mì hàng đầu.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2021 tăng 21-1/2 US cent lên 6,18-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 29/12/2014. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 6-1/4 US cent lên 4,03-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 4,04-1/4 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 12/8/2019 và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 6 US cent lên 10,62-1/4 USD/bushel.
Sở giao dịch ngũ cốc Rosario Argentina giảm ước tính sản lượng vụ thu hoạch lúa mì 2020/21 của nước này xuống 17 triệu tấn so với 18 triệu tấn dự kiến trước đó, do thời tiết khô và sương giá.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE giảm 0,02 US cent tương đương 0,1% xuống 14,18 US cent/lb. Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn London tăng 1,3 USD tương đương 0,3% lên 388,2 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 0,1 US cent tương đương 0,1% xuống 1,095 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 14 USD tương đương 1,1% lên 1.264 USD/tấn.
Diện tích trồng cà phê Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới đi qua, trong khi giá cà phê tại Indonesia tăng do nguồn cung cuối vụ thu hoạch giảm.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 150-160 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn London, tăng so với mức cộng 150 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 31.300 -32.800 VND (1,35-1,42 USD)/kg, tăng so với mức giá 31.300-31.800 VND/kg cách đây 1 tuần. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 9/2020 giảm 0,5% so với tháng 8/2020 xuống 99.735 tấn.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 170 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn London, tăng so với mức cộng 150 USD/tấn hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2020 cách đây 1 tuần.
Giá cao su trên sàn Osaka giảm, kết thúc chuỗi tăng 5 phiên liên tiếp, do các nhà đầu tư bán ra chốt lời sau khi đạt mức cao nhất 1,5 tháng, trong bối cảnh lo ngại về các trường hợp nhiễm Covid-19 tại châu Âu tăng, khiến nền kinh tế toàn cầu hồi phục chậm lại.
Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn OSE giảm 4,8 JPY xuống 197,3 JPY (1,87 USD)/kg, trong đầu phiên giao dịch đạt 204,1 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 31/8/2020.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 15 CNY lên 13.320 CNY (1.978 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 13.485 CNY/tấn, cao nhất kể từ tháng 1/2018.
Giá hàng hóa sáng 16/10

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,81

-0,15

-0,37%

Dầu Brent

USD/thùng

42,95

-0,21

-0,49%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.640,00

-130,00

-0,45%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

+0,01

+0,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

117,62

-0,38

-0,32%

Dầu đốt

US cent/gallon

118,46

-0,41

-0,34%

Dầu khí

USD/tấn

345,50

+4,00

+1,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.690,00

+150,00

+0,34%

Vàng New York

USD/ounce

1.913,90

+5,00

+0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.471,00

+34,00

+0,53%

Bạc New York

USD/ounce

24,47

+0,25

+1,02%

Bạc TOCOM

JPY/g

82,50

+0,90

+1,10%

Bạch kim

USD/ounce

868,39

+1,82

+0,21%

Palađi

USD/ounce

2.362,66

+0,73

+0,03%

Đồng New York

US cent/lb

308,45

-0,10

-0,03%

Đồng LME

USD/tấn

6.749,00

+33,00

+0,49%

Nhôm LME

USD/tấn

1.852,00

0,00

0,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.425,50

+8,50

+0,35%

Thiếc LME

USD/tấn

18.355,00

+55,00

+0,30%

Ngô

US cent/bushel

403,75

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

620,00

+1,75

+0,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

293,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,48

-0,04

-0,28%

Đậu tương

US cent/bushel

1.062,50

+0,50

+0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

372,60

+0,50

+0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,23

+0,06

+0,18%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

525,40

-0,80

-0,15%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.343,00

-48,00

-2,01%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,50

-0,10

-0,09%

Đường thô

US cent/lb

14,18

-0,02

-0,14%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,85

+1,35

+1,17%

Bông

US cent/lb

69,30

+0,08

+0,12%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

537,70

-11,20

-2,04%

Cao su TOCOM

JPY/kg

150,80

+3,70

+2,52%

Ethanol CME

USD/gallon

1,43

0,00

0,00%

 

Nguồn:VITIC/Reuters, Vinanet