(VINANET) – Tuần này giá hàng hóa nguyên liệu trên thị trường thế giới không biến động mạnh. Thị trường đang chịu tác động bởi thông tin nhiều chiều, tác động trái nhau tới xu hướng giá. Tâm lý của các nhà đầu tư lúc này cũng bất ổn nên không đầu tư nhiều và lâu cho mặt hàng nào.
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thô tăng nhẹ phiên cuối tuần 9/5 (kết thúc vào rạng sáng 10/5 giờ VN) . Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York kết thúc tuần ở mức giá 100,45 USD/thùng, trong khi dầu Brent tại London tăng nhẹ lên 108,16 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tuần thì chỉ có dầu WTI tăng nhẹ 0,2%, còn dầu Brent vẫn mất 0,6%.
Thị trường xăng dầu đang giằng cho bởi các nguyên nhân trái chiều. Tình hình tại Ucraina tiếp tục căng thẳng, gây lo ngại có thể làm gián đoạn nguồn cung. Tuy nhiên, dự trữ xăng dầu tại Mỹ lại tăng cao.
Thông tin từ Mỹ cho thấy nguồn cung dầu ở nước này vẫn ở mức gần cao chưa từng thấy theo số liệu của Ủy ban Thông tin năng lượng kể từ năm 1982.
Dự trữ xăng, dầu đốt nóng và nhiên liệu diesel đã tăng trở lại, cho thấy hoạt động sản xuất đã bắt kịp nhịp với nhu cầu. Sản lượng thường sẽ tăng vào mùa xuân khi các nhà máy lọc dầu kết thúc đợt bảo trì máy móc và hoạt động trở lại, phục vụ cho mùa tiêu thụ sắp tới.
Giá xăng RBOB giao tháng 6 giảm 0,3% xuống 2,8960 USD/gallon và giảm 1,7% trong cả tuần. Giá dầu diesel giao tháng 6 giảm 0,5% xuống 2,9068 USD/gallon và giảm 0,5% trong tuần này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng và bạc tiếp tục tăng trong phiên cuối tuần, với vàng tăng 1,8 USD lên 1.289 USD/ounce, còn bạc tăng 0,02 USD lên 19,16 USD/ounce. Tuy nhiên, tính chung trong tuần thì cả 2 kim loại này đều giảm do hoạt động bán tháo đẩy USD tăng giá sau đồn đoán Fed sẽ tăng lãi suất vào năm tới và chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Mario Draghi đánh tiếng có thể sẽ kích thích tiền tệ hơn nữa trong tháng 6.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) một lần nữa khẳng định ngân hàng trung ương đảm bảo sẽ duy trì điều tiết tiền tệ ở mức độ cao do tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát vẫn còn dưới mức mục tiêu của Fed. Tuy nhiên, thị trường đều cho rằng, Fed sẽ tăng lãi suất vào tháng 7/2015 sau khi hoàn toàn kết thúc chương trình kích thích vào cuối năm nay.
Kim loại nhóm bạch kim đồng loạt giảm phiên cuối tuần, và giảm chung trong cả tuần.
Hãng sản xuất bạch kim Lonmin ở Nam Phi đang chuẩn bị hoạt động trở lại vào tuần tới sau khi chấp thuận áp dụng mức lượng mới nhất cho các công nhân. Hơn nữa, Hiệp hội công nhân khai thác mỏ quốc gia cho biết, nhiều công nhân cũng đang quay trở lại làm việc sau đợt đình công kéo dài nhất trong 15 tuần.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tiếp tục sụt giảm. Phiên cuối tuần giá arabica tại New York giảm khoàng 6%, mức giảm mạnh nhất trong 4 phiên vừa qua, kéo giá cà phê toàn cầu sụt giảm. Arabica kỳ hạn tháng 7 giá giảm giảm 6,31% xuống 183,9 cent/lb, kỳ hạn tháng 9 giảm 6,2% xuống 186,15 cent/lb. Hiện giá arabica đang thấp nhất 1 tháng và dưới mức trung bình 50 ngày lần đầu tiên trong gần 6 tháng, theo Agranet.
Thông tin thu hoạch cà phê robusta tại tiểu bang Espirito Santo của Brazil tốt bất ngờ làm tăng nghi ngờ về khả năng Brazil sẽ không mất mùa quá nghiêm trọng như dự báo.
Trên sàn Liffe tại London, giá cà phê Robusta cũng giảm mạnh, với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 giá giảm 41 USD, tương đương 1,96% xuống 2.093 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 9 giảm 41 USD, tương đương 1,94% xuống 2.108 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam giảm giá theo xu hướng thế giới, với robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB giảm 54 USD, tương đương 2,6% xuống 2.008 USD/tấn. Cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đồng loạt giảm từ 600-700 nghìn đồng/tấn xuống 38,8-40,2 triệu đồng/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 3/5
|
Giá 11/5
|
So sánh với 10/5
|
|
|
|
|
+/-
|
%
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
99,76
|
100,45
|
+0,19
|
+0,19%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
108,59
|
108,16
|
+0,12
|
+0,11%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.030,00
|
65.050,00
|
+140,00
|
+0,22%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,67
|
4,58
|
0,00
|
+0,07%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
294,45
|
290,68
|
+0,18
|
+0,06%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
292,23
|
292,12
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
906,75
|
903,00
|
+3,50
|
+0,39%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
79.770,00
|
79.010,00
|
+140,00
|
+0,18%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.302,90
|
1.289,50
|
+1,80
|
+0,14%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.276,00
|
4.218,00
|
-9,00
|
-0,21%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,55
|
19,16
|
+0,02
|
+0,11%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,10
|
62,70
|
-0,60
|
-0,95%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.438,38
|
1.433,06
|
-3,32
|
-0,23%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
804,88
|
802,75
|
-1,00
|
-0,12%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
307,00
|
306,20
|
-0,05
|
-0,02%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.719,00
|
6.729,00
|
+74,00
|
+1,11%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.786,00
|
1.766,50
|
-2,50
|
-0,14%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.040,00
|
2.038,00
|
+7,50
|
+0,37%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
23.095,00
|
23.225,00
|
+120,00
|
+0,52%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
499,50
|
514,75
|
-1,75
|
-0,34%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
716,00
|
734,00
|
-1,25
|
-0,17%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
350,00
|
354,50
|
+1,50
|
+0,42%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,49
|
15,50
|
-0,05
|
-0,29%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.470,75
|
1.467,00
|
-2,50
|
-0,17%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
480,40
|
478,80
|
-1,90
|
-0,40%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
41,51
|
41,10
|
-0,02
|
-0,05%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
480,40
|
475,70
|
-4,20
|
-0,88%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.917,00
|
2.894,00
|
-5,00
|
-0,17%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
203,20
|
195,50
|
-5,50
|
-2,74%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,45
|
17,24
|
-0,02
|
-0,12%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
160,25
|
161,20
|
-1,70
|
-1,04%
|
Bông
|
US cent/lb
|
94,32
|
92,92
|
-0,13
|
-0,14%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
341,50
|
343,10
|
+0,30
|
+0,09%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,80
|
198,60
|
-0,70
|
-0,35%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,05
|
2,16
|
+0,10
|
+4,61%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg