Những kết quả khả quan trong Quý I/2024
Thông tin tại cuộc họp về tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại 3 tháng đầu năm 2024, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính Bùi Huy Sơn cho biết, nhìn chung, cả 3 lĩnh vực chính của ngành Công Thương gồm sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu và thị trường trong nước đồng thời cho thấy kết quả rất khả quan trong quý I/2024, tiếp nối đà phục hồi cuối năm 2023, đóng góp tích cực đối với kết quả tăng trưởng của cả nền kinh tế trong Quý đầu năm 2024.
Cụ thể, sản xuất công nghiệp trong quý I/2024 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế (GDP quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính cho biết thêm, sản xuất công nghiệp tăng trên diện rộng khi chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương. Đặc biệt, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao (IIP của Trà Vinh tăng 102,%; Khánh Hoà tăng 37%; Bắc Giang tăng 23,9%; Thanh Hoá tăng 20%; Hà Nam tăng 17,2%; Quảng Ninh tăng 14%...).
Đáng chú ý, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước: Thép thanh, thép góc tăng 29,1%; thép cán tăng 24,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 23,1%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 21,8%; xăng dầu tăng 21,7%; phân Urê tăng 14,4%; điện sản xuất tăng 11,4%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt (khí thiên nhiên) và điện thoại di động cùng giảm 13,3%; ô tô giảm 11,3%; ti vi giảm 11,1%; khí hóa lỏng LPG giảm 11,0%; xe máy giảm 5,2%.
Liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, với sự phục hồi của thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng nên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong Quý I/2024 đã có những khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 34 tỷ USD, tăng tới 37,8% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 14,3%); nhập khẩu ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 33,4% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 13,1%).
Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 11,6%); nhập khẩu ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 15,4%).
Về thị trường trong nước, thị trường hàng hóa tháng 3 không có nhiều biến động; nguồn cung các hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân; giá một số hàng hóa nhóm lương thực, thực phẩm tương đối ổn định nhờ nguồn cung dồi dào (riêng giá lợn hơi tăng nhẹ). Tuy nhiên, do sau dịp Tết Nguyên đán nhu cầu tiêu dùng của người dân trở lại trạng thái bình thường nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 chỉ tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 tăng 13,9%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,1% (quý I/2023 tăng 10,1%). Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I/2024 ước đạt 1.190,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 4,5%).
Theo Vụ trưởng Bùi Huy Sơn, đạt được những kết quả nêu trên là nhờ có: (i) Sự hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm; (ii) Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước; (iii) Sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023; Số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng; (iv) Những nỗ lực trong việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã củng cố niềm tin của nhà đầu tư; (v) Năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên, tình hình phát triển ngành Công Thương trong Quý I/2024 còn hạn chế như chỉ số tồn kho sản phẩm chế biến, chế tạo có xu hướng tăng; thị trường trong nước tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu còn phụ thuộc một số thị trường chính; đóng góp của các doanh nghiệp trong nước vào XK còn hạn chế (28,1%).
Theo đó, trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ. Tập trung triển khai các Kế hoạch thực hiện các Quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng, khoáng sản ngay sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặc biệt là Quy hoạch điện 8 để khuyến khích đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trọng điểm, tạo đà tăng trưởng công nghiệp những năm tiếp theo. Đồng thời, tập trung hoàn thiện thể chế, cụ thể là Xây dựng trình Chính phủ xem xét, trình Quốc hội 04 dự thảo Luật (Luật Hóa chất, Luật Điện lực (sửa đổi) đã đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật năm 2024; Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm và Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đang đề xuất bổ sung); Hoàn thiện, trình Chính phủ xem xét, ban hành cơ chế tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy đầu tư các dự án điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), cơ chế phát triển điện mặt trời áp mái; giá mua điện từ Lào.
Cũng tại cuộc họp báo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân, Lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ đã giải đáp nhiều câu hỏi của báo chí liên quan đến các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Công Thương.
Nghị định Kinh doanh xăng dầu mới tiến gần hơn với cơ chế thị trường
Trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến xây dựng Nghị định Kinh doanh xăng dầu mới để thay thế 3 Nghị định quản lý xăng dầu hiện nay, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước Nguyễn Thúy Hiền cho biết, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương hiện đang phối hợp các bộ, ngành và đơn vị liên quan xây dựng dự thảo về kinh doanh xăng dầu. Đối với cơ chế giá xăng dầu, dự thảo Nghị định dự kiến sẽ tiến dần hơn với cơ chế thị trường và nhà nước ban hành nguyên tắc công thức giá để thương nhân kinh doanh xăng dầu chủ động quyết định mức giá bán, nhưng giá không cao hơn mức giá mà công thức giá quy định.
Đối với nội dung thứ 2 về cơ chế bình ổn giá xăng dầu, thời gian qua, Quỹ bình ổn giá xăng dầu cũng đã bộc lộ một số điểm bất cập và cần được nghiên cứu, xem xét, sửa đổi. Theo đó, việc quy định cụ thể hơn về mức trích, chi và thời gian trích, chi cũng như các nội dung khác liên quan cũng đang được xem xét.
Đối với dự thảo Nghị định thì đúng như dự kiến, nội dung này quy định rõ trường hợp thực hiện bình ổn giá thì Bộ Công Thương mới chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành đề xuất, tổng hợp báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương bình ổn giá xăng dầu, điều này cũng phù hợp với quy định Luật Giá năm 2023 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/7/2024. Dự thảo hiện đang được lấy ý kiến của các cơ quan chuyên môn và các tổ chức có liên quan, Bộ Công Thương thì sẽ cùng với các bộ cơ quan liên quan nghiên cứu, đánh giá để hoàn thiện và xin ý kiến rộng rãi.
Thông tin thêm về vấn đề này, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân - Người Phát ngôn của Bộ Công Thương cho hay, theo quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thì Nghị định Kinh doanh xăng dầu mới để thay thế 3 Nghị định quản lý xăng dầu hiện nay cần có thời gian để đăng công bố công khai, lấy ý kiến rộng rãi của các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong vòng 60 ngày, Bộ Công Thương trong quá trình soạn thảo đã phối hợp với Ban soạn thảo thống nhất là sẽ công bố lấy ý kiến hoàn thiện bắt đầu từ 27/3.
Nghị định dự thảo mới có rất nhiều nội dung có nhiều đổi mới, mang tính chất đảm bảo mục tiêu cuối cùng là cân đối cung - cầu, đảm bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra, trong quá trình điều hành cũng cần phải vừa tiếp cận được thị trường nhưng phải có sự điều tiết của cơ quan nhà nước.
Liên quan đến điều hành giá, thì hiện nay việc điều hành giá trên tinh thần liên Bộ, đưa ra mức giá trần để tham khảo và từ đó các doanh nghiệp đưa ra mức giá tính toán của mình sao cho phù hợp với tình hình kinh doanh thực tế của họ, nhưng không vượt mức giá trần, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho hay.
Quyết liệt đảm bảo cung ứng điện cả năm, nhất là mùa khô năm 2024
Trả lời câu hỏi của phóng viên khi lo ngại tình hình thiếu điện trong năm nay, Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực Nguyễn Thế Hữu cho biết, tính đến hết tháng 3 năm 2024, phụ tải tăng trưởng khoảng 11.5%. Để đảm bảo cung ứng điện từ cuối năm 2023, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các đơn vị triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách, đầu tư xây dựng và quán triệt tuyệt đối trong công tác vận hành nhằm đảm bảo cao nhất việc cấp điện cho sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh.
Cụ thể, Bộ Công Thương đã đưa ra các giải pháp đảm bảo cung ứng điện như: Thứ nhất, tập trung các nguồn lực để phấn đấu hoàn thành các công trình lưới điện, nguồn điện để giải toả nguồn điện cũng như tăng cường khả năng truyền tải; Thứ hai, đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu, nhiên liệu cho phát điện, đặc biệt là than và khí; Thứ ba, tăng cường giám sát, kiểm tra tình hình vận hành các quy định ngành điện, khắc phục nhanh chóng những sự cố xảy ra, chuẩn bị dự phòng vật tư sẵn sàng đảm bảo vận hành hệ thống; Thứ tư, điều tiết hợp lý các nhà máy thuỷ điện đảm bảo dự phòng công suất điện năng trong cao điểm mùa khô; Thứ năm, tăng cường công tác rà soát các đường dây truyền tải 500kV, 200kV, kiểm tra khắc phục các khiếm khuyết nếu có, hạn chế nguy cơ xảy ra sự cố; Thứ sáu, tăng cường công tác tuyên truyền, đẩy mạnh các chương trình tiết kiệm điện.
Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực thông tin thêm, trong tháng 2, tháng 3 vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng, các đơn vị cục, vụ liên quan của Bộ Công Thương đã tổ chức các đoàn làm việc với các đơn vị phát điện, truyền tải, phân phối, qua đó, rà soát đảm bảo tình hình cung ứng điện cả năm, đặc biệt là mùa khô năm 2024.
Trên thực tế, dự báo nhu cầu sử dụng điện năm 2024 tiếp tục tăng trưởng cao so với năm 2023, ngay từ cuối năm 2023, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 3110/QĐ-BCT ngày 30 tháng 11 năm 2023 Phê duyệt kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2024. Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết định 3376/QĐ-BCT ngày 29/12/2023 về việc phê duyệt Kế hoạch cung ứng điện các tháng cao điểm mùa khô (tháng 4, 5, 6, 7) trong năm 2024 với phương án là phụ tải tăng 9,6% để dự phòng cho vận hành hệ thống điện trong các tháng cao điểm mùa hè.
Về vấn đề giá điện, theo ông Nguyễn Thế Hữu, cần điều chỉnh theo lộ trình để giảm thiểu tác động tới kinh tế vĩ mô và khách hàng sử dụng điện, cần xem xét tới việc rút ngắn chu kỳ tối thiểu điều chỉnh giá điện để vừa đảm bảo chi phí không bị dồn tích quá nhiều có thể gây ảnh hưởng đến cân bằng tài chính của EVN; bên cạnh đó cũng dần đưa giá điện thích ứng với sự biến động của các thông số đầu vào theo thị trường.
"Nội dung đề xuất này cũng phù hợp với quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo đó áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng" - ông Nguyễn Thế Hữu nhấn mạnh.
Về điểm mới tại Quyết định 05/2024/QĐ-TTg, theo ông Nguyễn Thế Hữu, đó là việc đề xuất rút ngắn thời gian tối thiểu giữa hai lần điều chỉnh giá từ 6 tháng xuống 3 tháng, không có nghĩa là cứ 3 tháng điều chỉnh giá điện một lần mà còn tuỳ thuộc vào đánh giá tác động tới kinh tế vĩ mô, cũng như tuỳ thuộc vào kết quả tính toán cập nhật giá điện đã đủ mức để được xem xét điều chỉnh theo quy định hay chưa.
"Quyết định 05/2024/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg vừa mới ban hành có tính kế thừa và chỉ điều chỉnh một số nội dung mới cho phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của Chính phủ về thị trường năng lượng nói chung và thị trường điện nói riêng, phù hợp với thực tiễn và xu thế hội nhập" – ông Nguyễn Thế Hữu nói.
Thông tin thêm về vấn đề này, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, với vai trò là bộ quản lý ngành, Bộ Công Thương vẫn giữ vai trò, trách nhiệm chính trong việc điều hành giá điện; trong quá trình kiểm tra, rà soát phương án giá điện do EVN xây dựng và trong quá trình kiểm tra, điều chỉnh giá điện, cũng như tham mưu Thủ tướng Chính phủ trong điều hành giá điện.
Thông tin thêm về vấn đề lo ngại thiếu điện trong năm nay, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, tình trạng tiết giảm phụ tải điện trong tháng 6/2023 ở một số địa phương là sự cố đáng tiếc. Thủ tướng Chính phủ cũng rất quan tâm và có nhiều chỉ đạo đảm bảo cung ứng điện trong năm 2024. Cụ thể, thứ nhất, Thủ tướng Chính Phủ đã giao cho Bộ Công Thương trực tiếp giám sát, tham gia vào việc điều hành, cùng với EVN đảm bảo vận hành cung ứng điện.
Thứ hai, là phải có sự đổi mới trong lập kế hoạch, điều hành, đảm bảo nhiên, nguyên liệu trong vận hành hệ thống điện. Bên cạnh đó, từ Quyết định 05/2024/QĐ-TTg, Bộ Công Thương đã chủ động ban hành kế hoạch cung ứng điện, đồng thời đảm bảo các nguyên, nhiên liệu, đặc biệt là khí, than để phục vụ cho các nguồn điện.
Đặc biệt, Bộ Công Thương đã ban hành riêng kế hoạch cung ứng điện cho các tháng mùa khô. Với riêng kế hoạch từ tháng 4 đến tháng 7, trên cơ sở đó rà soát hàng tháng, hàng quý và có báo cáo để điều chỉnh kịp thời. "Bộ Công Thương sẽ cùng EVN và các đơn vị liên quan đề ra nhiều giải pháp đảm bảo cung ứng điện. Chúng tôi tin tưởng và khẳng định, năm 2024 sẽ không thiếu điện và sẽ cố gắng đảm bảo đủ điện trong những năm tiếp theo" - Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nhấn mạnh.
Thông tin về kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, Quy hoạch điện VIII là sự trông mong rất nhiều của các chủ đầu tư, tuy nhiên vẫn có sự chậm trễ vì còn nhiều vấn đề khó khăn vướng mắc. Theo nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 500/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn tới năm 2050. Căn cứ Điều 45 Luật Quy hoạch, Bộ Công Thương đã phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII .
Bộ Công Thương đã triển khai thực hiện quy hoạch này với 6 lần trình Chính phủ. Chính phủ cũng đã tổ chức rất nhiều cuộc họp, trong đó gần đây có 2 cuộc họp ngày 29/02/2024 và 25/03/2024 đánh giá Quy hoạch điện VIII là nội dung khó, được nhiều cấp ngành trong ngoài nước quan tâm, có nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nhằm có kế hoạch tổng thể, có tính khả thi, với mục tiêu cao nhất là đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng, mặc dù Bộ Công Thương đã rất nỗ lực, cố gắng hoàn thiện Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII theo đúng tiến độ, các chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, Thường trực Chính phủ. Song, trong quá trình thực hiện có 17 địa phương gửi danh mục đề xuất các dự án về năng lượng tái tạo bị chậm nhiều so với thời gian yêu cầu của Chính phủ. Sau khi tiến hành rà soát tính pháp lý, tiêu chí các dự án do địa phương cung cấp, Bộ Công Thương đã hoàn thiện danh mục và đề xuất Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phù hợp với quy mô công suất nguồn điện năng lượng tái tạo được phân bổ.
Nhiều giải pháp mở cở thị trường
Đối với nội dung câu hỏi liên quan đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu trong 3 tháng đầu năm 2023, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Trần Thanh Hải cho hay, hiện tại, tình hình phục hồi sản xuất khá tốt đã góp phần vào sự phục hồi của tăng trưởng xuất khẩu. Đặc biệt, nhiều thị trường xuất khẩu lớn có sự phục hồi, vượt qua giai đoạn suy thoái.
Kết quả có được là nhờ các giải pháp của Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp như giảm thuế, cải cách thủ tục hành chính; Việt Nam tích cực thu hút dầu tư, cũng như đón các làn sóng dịch đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, đề cập đến khai thác các ưu đãi từ các FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết, ông Nguyễn Thanh Hải cho biết, hiện Việt Nam tham gia ký kết 16 FTA, cơ bản các thị trường có hiệu quả rất tốt và các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đều nằm trong các FTA.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đang nỗ lực tìm kiềm khả năng để tiến tới ký kết FTA với những địa bàn chưa có FTA như Trung Đông, Nam Á, Châu Phi, qua đó cải thiện nâng cao kim ngạch xuất khẩu.
Theo đại diện Cục Xuất nhập khẩu, ngoài 16 FTA, hiện có 3 FTA Việt Nam đang đàm phán, đó là FTA giữa Việt Nam và Khối EFTA (bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein); tham gia khuôn khổ đàm phán FTA giữa ASEAN và Canada; FTA giữa Việt Nam và UAE hiện cũng đang trong giai đoạn nỗ lực kết thúc đàm phán sớm.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2024, theo ông Trần Thanh Hải, trong bối cảnh hiện nay, Bộ Công Thương tiếp tục nỗ lực triển khai nhiều giải pháp đã đề ra, trong đó sẽ mở rộng đàm phán các FTA, phổ biến để hiện thực hóa các ưu đãi từ FTA mà chúng ta đã ký kết và đi vào thực thi; đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, thực hiện chuyển đổi số; giúp doanh nghiệp khơi thông xuất khẩu hàng hoá; đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu.
Nhấn mạnh thêm về việc khai thác hiệu quả các thị trường mà Việt Nam đã có FTA, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết thêm, ngoài việc tiếp tục mở rộng, nghiên cứu ký kết thêm các FTA, Việt Nam tiếp tục tăng cường nâng cấp các FTA hiện tại như FTA liên quan đến ASEAN, tiếp tục mở rộng thị trường; tận dụng tốt hơn các FTA hiện tại, khai thác các thị trường truyền thống.
Người phát ngôn của Bộ Công Thương cũng lưu ý, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu còn phụ thuộc một số thị trường chính; đóng góp của các doanh nghiệp trong nước vào xuất khẩu còn hạn chế. Để giữ vững đà tăng trưởng, Bộ Công Thương sẽ cùng với các bộ, ngành liên quan tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA hiện tại, nâng cấp các FTA để mở rộng thị trường, gia tăng khả năng xuất khẩu của hàng Việt Nam. Bộ Công thương sẽ theo dõi sát diễn biến thị trường và thay đổi chính sách của các đối tác để đề xuất các giải pháp phù hợp, phát triển đa dạng các thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường mới. Đồng thời, Bộ Công Thương tiếp tục thông tin với các hiệp hội ngành hàng về những diễn biến của thị trường xuất khẩu để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường.
Trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến việc doanh nghiệp sản xuất thép gửi đề nghị lên Cục Phòng vệ thương mại điều tra chống bán phá giá thép cán nóng, ông Chu Thắng Trung - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại cho biết, mới đây Bộ Công Thương đã nhận hồ sơ chống bán phá giá của một số doanh nghiệp trong nước đối với một số sản phẩm ngoại nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Căn cứ theo quy định của Luật Quản lý Ngoại thương, khi các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước nhận thấy có hành vi phá giá, có dấu hiệu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, đều có quyền nộp hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền.
“Ngay sau khi nhận được hồ sơ đề nghị của các doanh nghiệp, căn cứ theo quy định, quy trình, cơ quan chức năng sẽ tiến hành thẩm định tính hợp lệ của bộ hồ sơ (kéo dài 15 ngày). Trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, đại diện các ngành sản xuất trong nước phải nộp hồ sơ bổ sung. Khi hồ sơ đã đầy đủ, hợp lệ sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ trong vòng 45 ngày. Trên cơ sở đó, kiến nghị Bộ Công Thương tiến hành khởi xướng hoặc không khởi xướng điều tra chống bán phá giá, thời hạn điều tra sau khi khởi xướng sẽ kéo dài từ 2 - 6 tháng (tối đa là 8 tháng). Trong quá trình Cơ quan điều tra sẽ thông báo cụ thể để các bên liên quan cung cấp đầy đủ chứng cứ để xem xét một cách toàn diện, công bằng rồi đưa ra kết luận hợp lý. Kể cả sau khi khởi xướng điều tra chưa có biện pháp nào áp dụng với áp dụng hàng hóa nhập khẩu”- ông Chu Thắng Trung nêu rõ và cho biết thêm, quá trình điều tra sẽ được thực hiện công khai, minh bạch; các hồ sơ hợp được thông báo đầy đủ lên các kênh thông tin. Bộ Công Thương cũng như Cục Phòng vệ Thương mại đều có thông tin đến các cơ quan báo chí, phía doanh nghiệp, đồng thời tiến hành đẩy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và Tổ chức Thương mại thế giới.
Bổ sung câu trả lời, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, quyền yêu cầu là điều tra chống bán phá giá là của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền nộp đơn. Việc nộp đơn có nhiều ý kiến (ủng hộ điều tra chống bán phá giá và đề nghị không nên áp dụng). Bộ Công Thương luôn thực hiện đúng theo quy định. Quá trình điều tra được thực hiện chặt chẽ và kết quả điều tra có thể áp dụng hoặc không áp dụng. Như vậy, cần có đầy đủ cơ sở, bằng chứng để minh chứng cho việc có nên áp dụng điều tra chống bán phá giá hay không. “Bộ Công Thường đang xem xét và tiếp tục yêu cầu các bên đưa thêm hồ sơ, chưa đưa ra kết luận, quyết định cuối cùng có điều tra hay không” – Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân thông tin.
Nguồn:Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương