menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG tuần tới 14/10: Giá biến động trái chiều

09:00 17/10/2022

Trong tuần qua, giá dầu và vàng giảm, trong khi kim loại và một số nông sản tăng.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh
Giá dầu giảm hơn 3% trong phiên cuối tuần do lo ngại về hả năng suy thoái kinh tế toàn cầu tiếp tục ảnh hưởng đến triển vọng nhu cầu năng lượng, mặc dù OPEC+ mục tiêu cắt giảm mạnh nguồn cung.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giảm 2,94 USD, tương đương 3,1%, xuống 91,63 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 3,5 USD, tương đương 3,9%, xuống 85,61 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, cả 2 loại đều giảm, với mức giảm lần lượt 6,4% và 7,6%.
Lạm phát lõi của Mỹ tháng 9 tăng mạnh nhất trong vòng 40 năm, củng cố quan điểm lãi suất sẽ duy trì xu hướng tăng trong thời gian dài hơn và gây nguy cơ suy thoái toàn cầu. Ngày 1-2/11/2022 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ họp kỳ tiếp theo và sẽ đưa ra quyết định về lãi suất.
Kết quả một cuộc khảo sát cho thấy tâm lý người tiêu dùng Mỹ tiếp tục cải thiện trong tháng 10, nhưng dự đoán lạm phát của các hộ gia đình đã giảm đi một chút. Sự cải thiện trong tâm lý người tiêu dùng "đang được xem là một yếu tố tiêu cực vì có nghĩa là Fed cần phải phá vỡ tinh thần của người tiêu dùng và làm cho nền kinh tế giảm tốc độ tăng trưởng hơn nữa, và điều đó đã gây ra sự gia tăng của đồng đô la và gây áp lực giảm giá đối với thị trường dầu mỏ". Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group ở Chicago cho biết.
Chỉ số Dollar index tăng 0,8%. Đồng USD tăng mạnh làm giảm nhu cầu dầu, khiến dầu trở nên đắt hơn đối với khách mua hàng bằng tiền tệ khác.
Về nguồn cung của Mỹ, các công ty năng lượng trong tuần qua đã bổ sung thêm 8 giàn khoan dầu để nâng tổng số lên 610 giàn, mức cao nhất kể từ tháng 3 năm 2020, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết.
Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, đang chống chọi với đợt bùng phát dịch COVID-19 sau kỳ nghỉ lễ kéo dài một tuần. Số người nhiễm mới không nhiều, nhưng nước này tiếp tục theo đuổi chính sách Zero COVID, ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế và tác động đến nhu cầu dầu mỏ.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) hôm thứ Năm đã cắt giảm dự báo nhu cầu dầu cho năm nay và năm sau, cảnh báo về một cuộc suy thoái toàn cầu tiềm ẩn. Thị trường vẫn đang đánh giá quyết định vào tuần trước của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh, cùng được gọi là OPEC +, khi họ thông báo cắt giảm mục tiêu sản xuất 2 triệu thùng/ngày. Theo ước tính của IEA, sản xuất của nhóm này thấp hơn mục tiêu có nghĩa là có thể dẫn đến mức cắt giảm 1 triệu thùng/ngày.
Kim loại quý: Giá vàng và bạc giảm mạnh
Giá vàng giảm hơn 1% trong phiên cuối tuần và có tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 8/2022, chịu áp lực giảm bởi đồng USD tăng mạnh và lo ngại Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 1,3% xuống 1.643,9 USD/ounce, tính chung cả tuần giảm 2,9%; vàng kỳ hạn tương lai giảm 1,6% xuống 1.649,5 USD/ounce.
Daniel Ghali, Chiến lược gia hàng hoá tại TD Securities, nhận định: “Giá vàng ngày càng tương quan với diễn biến của đồng USD và có thể giảm xuống mức thấp 1.600 USD/ounce”.
Vàng rất nhạy cảm với việc nâng lãi suất Mỹ, điều này thúc đẩy lợi suất trái phiếu, làm tăng chi phí cơ hội cho việc nắm giữ kim loại vốn không sinh lời. Đồng USD tăng khiến vàng - được định giá bằng đồng bạc xanh - trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác. Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng mạnh lên trong phiên cuối tuần, gây thêm áp lực giảm cho giá vàng.
Giá bạc phiên cuối tuần cũng giảm 3,5% xuống 18,22 USD/ounce và có tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 9/2020.
Trong khi đó, giá bạch kim giảm 0,3% xuống 893,99 USD/ounce, giá palladium giảm 4,9% xuống 2.003,38 USD/ounce. Cả hai kim loại quý này đều tiếp tục ghi nhận tuần giao dịch ảm đạm.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng, nhôm và thiếc tăng
Trong phiên cuối tuần, giá nhôm giảm do tồn trữ tăng cho thấy nguồn cung vẫn dồi dào. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá tăng do thông tin Mỹ có thể cấm nhập khẩu nhôm của Nga. Nga sản xuất 6% nhôm của thế giới và các biện pháp của Mỹ nhằm ngăn chặn thương mại kim loại của nước này có thể làm gián đoạn thị trường.
Kết thúc phiên này, giá nhôm trên sàn London giảm 2,5% xuống 2.300,5 USD/tấn, sau khi tăng 3,1% hôm 12/10 và tăng 2,4% hôm 13/10/2022. Tồn trữ nhôm trên sàn LME tăng 41.400 tấn lên 367.200 tấn, trong khi tồn trữ tại sàn Thượng Hải tăng 12.293 tấn lên 186.804 tấn.
Giá đồng phiên cuối tuần giảm 0,5% xuống 7,534 USD/tấn, kẽm tăng 0,6% lên 2,918,50 USD, niken giảm 2,9% xuống 21,775 USD, chì giảm 0,9% xuống 2,026 USD và thiếc cũng giảm 0,9% xuống 19,930 USD.
Tính chung cả tuần, giá đồng, nhôm và thiếc tăng, các kim loại cơ bản khác giảm.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tại Đại Liên kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,6% xuống 702,5 CNY (97,93 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2022 trên sàn Singapore tăng 1,5% lên 93,4 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm tuần đầu tiên trong vòng 5 tuần do lo ngại các quy định và những biện pháp hạn chế nghiêm ngặt chống COVID ở Trung Quốc – nước sản xuất thép hàng đầu thế giới.
Giá quặng sắt nhập khẩu vào Trung Quốc, hàm lượng 62% Fe, giảm xuống mức thấp nhất 11 tháng trong tuần này, là 95,5 USD/tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,4%, thép dây tăng 0,6% và thép cuộn cán nóng tăng 0,1%. Giá thép không gỉ đạt mức cao nhất 1 tháng, trong bối cảnh lo ngại nguồn cung quặng nickel thắt chặt.
Nông sản: Giá ngô, đậu tương và cà phê tăng, lúa mì và đường giảm
Trong phiên cuối tuàn, giá lúa mì tại Mỹ giảm, sau khi tăng mạnh phiên trước đó do đồng USD tăng và kỳ vọng tiến triển trong các cuộc đàm phán để duy trì hành lang xuất khẩu ngũ cốc khu vực Biển Đen của Ukraine. Giá ngô và đậu tương giảm theo xu hướng giá lúa mì do nhu cầu yếu và thị trường năng lượng cũng như chứng khoán đều giảm.
Trên sàn Chicago phiên 14/10, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2022 giảm 32-1/2 US cent xuống 8,59-3/4 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá lúa mì giảm 2,3% - tuần giảm thứ 2 liên tiếp. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2022 giảm 8 US cent xuống 6,89-3/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2022 giảm 12 US cent xuống 13,83-3/4 USD/bushel. Tuy nhiên, cả ngô và đậu tương có tuần tăng, với ngô tăng 1% và đậu tương tăng 1,2%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,03 US cent tương đương 0,2% lên 18,84 US cent/lb. Tính chung cả tuần, giá đường tăng 0,8%; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn London tăng 2,1 USD tương đương 0,4% lên 559,3 USD/tấn.
Các đại lý cho biết mưa ở Brazil, nước sản xuất đường hàng đầu thế giới, đã làm chậm lại vụ thu hoạch năm nay và có nguy cơ làm giảm sản lượng. Czarnikow hôm thứ Sáu đã hạ dự báo sản lượng đường tại Brazil năm nay xuống 700.000 tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm gần 10% trong tuần qua xuống mức thấp nhất 1 năm do triển vọng vụ thu hoạch tới tại Brazil được cải thiện bởi thời tiết thuận lợi, thúc đẩy hoạt động bán ra. Theo đó, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn ICE giảm 5,45 US cent, tương đương 2,7% xuống 1,967 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1 năm lúc đầu phiên giao dịch, là 1,9565 USD/lb. Tính chung cả tuần, giá cà phê giảm 9,8%. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn London giảm 46 USD tương đương 2,2% xuống 2.051 USD/tấn.
Dự trữ arabica được sàn ICE chứng nhận giảm xuống 400.439 bao vào ngày 14/10, mức thấp nhất trong 23 năm.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng theo xu hướng thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh, song tính chung cả tuần giá giảm do những biện pháp hạn chế mới chống COVID-19 tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, giá cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Osaka tăng 0,6 JPY tương đương 0,3% lên 229,4 JPY (1,56 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá giảm 2,2%. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 30 CNY lên 12.830 CNY (1.788 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2022 trên sàn Singapore tăng 0,2% lên 131,8 US cent/kg.
Giá tiêu dùng của Trung Quốc trong tháng 9/2022 tăng với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 8/2020.
Những tháng qua, thị trường đã gia tăng lo ngại về nhu cầu cao su chậm lại ở Trung Quốc khi nước này phải vật lộn với cuộc khủng hoảng bất động sản, các đợt nắng nóng làm gián đoạn sản xuất và các đợt phong tỏa chống COVID-19 kéo dài ảnh hưởng đến hoạt động công nghiệp và tiêu dùng.
Sản lượng cao su ở nước xuất khẩu hàng đầu thế giới - Thái Lan - có thể bị ảnh hưởng bởi dự báo về mưa lớn và cảnh báo lũ lụt trên khắp đất nước.
Giá hàng hóa thế giới

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá 6/10

Giá 14/10

14/10 so với 13/10

14/10 so với 13/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

92,64

85,61

-3,50

-3,93%

Dầu Brent

USD/thùng

97,92

91,63

-2,94

-3,11%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

77.940,00

74.370,00

-1.470,00

-1,94%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,75

6,45

-0,29

-4,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

273,46

263,09

-7,25

-2,68%

Dầu đốt

US cent/gallon

401,87

398,02

-11,46

-2,80%

Dầu khí

USD/tấn

1.257,75

1.085,75

-30,00

-2,69%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

83.000,00

83.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.709,30

1.648,90

-28,10

-1,68%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.887,00

7.831,00

-58,00

-0,74%

Bạc New York

USD/ounce

20,26

18,07

-0,85

-4,48%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,10

86,00

-3,20

-3,59%

Bạch kim

USD/ounce

916,82

903,06

-0,19

-0,02%

Palađi

USD/ounce

2.194,75

1.995,88

-121,15

-5,72%

Đồng New York

US cent/lb

338,65

342,35

-1,70

-0,49%

Đồng LME

USD/tấn

7.457,50

7.538,50

-34,50

-0,46%

Nhôm LME

USD/tấn

2.299,00

2.306,00

-53,50

-2,27%

Kẽm LME

USD/tấn

2.991,50

2.941,00

+40,00

+1,38%

Thiếc LME

USD/tấn

19.425,00

19.930,00

-170,00

-0,85%

Ngô

US cent/bushel

683,25

689,75

-8,00

-1,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

880,25

859,75

-32,50

-3,64%

Lúa mạch

US cent/bushel

379,00

397,75

-9,75

-2,39%

Gạo thô

USD/cwt

16,83

16,74

-0,02

-0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.367,00

1.383,75

-12,00

-0,86%

Khô đậu tương

USD/tấn

400,70

411,10

+0,10

+0,02%

Dầu đậu tương

US cent/lb

66,60

65,30

-1,13

-1,70%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

876,60

869,10

-8,60

-0,98%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.396,00

2.377,00

-8,00

-0,34%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

218,10

196,70

-5,45

-2,70%

Đường thô

US cent/lb

18,68

18,84

+0,03

+0,16%

Nước cam đặc lạnh

US cent/lb

192,85

195,70

+1,85

+0,95%

Bông

US cent/lb

84,23

83,15

-1,64

-1,93%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

445,60

494,00

-4,30

-0,86%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,10

130,90

+0,70

+0,54%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa