Ở nhóm kim loại quý, giá vàng ổn định trong phiên giao dịch cuối tuần qua nhưng ghi nhận tuần sụt giảm đầu tiên trong 4 tuần, khi nhà đầu tư hạ thấp kỳ vọng về việc hạ lãi suất của Mỹ sau khi dữ liệu trong tuần cho thấy áo lực giá tăng.
Kết thúc phiên giao dịch ngày 15/03, hợp đồng vàng giao ngay hầu như đi ngang ở mức 2,159.99 USD/oz. Tuần này, hợp đồng vàng đã mất 0.8%, ghi nhận tuần giảm đầu tiên kể từ giữa tháng 2/2024, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2,194.99 USD/oz vào tuần trước. Hợp đồng vàng tương lai lùi 0.3% xuống 2,161.5 USD/oz.
Dữ liệu tuần này cho thấy giá tiêu dùng CPI tại Mỹ tăng mạnh hơn dự báo trong tháng 2 và giá sản xuất PPI cũng cho thấy lạm phát có phần ổn định.
Everett Millman, Trưởng bộ phận phân tích thị trường tại Gainesville Coins, cho biết: “Vàng đã được định giá bất kỳ mức tăng tích cực nào mà nó có thể nhận được từ kỳ vọng lãi suất sẽ giảm… nếu lạm phát bắt đầu tăng trở lại, điều đó có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách sẽ phải duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt hơn trong thời gian dài hơn”.
“Mặc dù vàng không đặc biệt thích môi trường lãi suất cao, nhưng nếu lí do khiến lãi suất duy trì ở mức cao đó là do lạm phát đang tăng nóng… điều đó thường có nghĩa là mọi người sẽ lại chuyển sang vàng”, ông Millman nói thêm.
Lạm phát cao hơn dự báo duy trì áp lực buộc Fed phải giữ lãi suất ở mức cao, qua đó gây áp lực lên vàng. Kim loại quý không đem lại lợi suất cũng được sử dụng như một kênh phòng ngừa lạm phát.
Nhà đầu tư tiếp tục dự báo khả năng Fed hạ lãi suất vào tháng 6, mặc dù xác suất đã giảm từ 72% trước khi có dữ liệu CPI xuống còn 59%, theo công cụ CME FedWatch.
Chỉ số đồng USD chứng kiến tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 1/2024, làm vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người mua nước ngoài.
Goldman Sachs lưu ý: “Chúng tôi nâng dự báo giá vàng trung bình trong năm 2024 từ 2,090 USD/oz lên 2,180 USD/oz, mục tiêu tăng lên 2,300 USD/oz vào cuối năm nay”.
Bên cạnh giá vàng, giá các kim loại khác cũng có sự biến động với giá bạch kim giao ngay tăng 1,5% lên 940,95 USD/ounce, giá palladium tăng 1,2% lên 1.082,61 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 1,7% lên mức 25,25 USD/ounce.
Ở nhóm kim loại cơ bản, trong phiên giao dịch cuối tuần, giá đồng tăng lên mức cao mới, nhưng một số nhà đầu tư và nhà phân tích tỏ ra thận trọng về khả năng cắt giảm sản lượng ở Trung Quốc và liệu đà tăng có được duy trì hay không.
Giá đồng Thượng Hải đạt mức cao kỷ lục và giá ở London và Chicago chạm mức cao nhất 11 tháng sau khi các nhà luyện kim Trung Quốc đồng ý cắt giảm sản lượng trước lợi nhuận và thua lỗ.
Trên sàn giao dịch London, giá đồng kỳ hạn giao ba tháng đã tăng 1,9% lên 9.057 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2023.
Các nhà luyện đồng lớn của Trung Quốc đã đồng ý giảm công suất hoạt động, điều chỉnh kế hoạch bảo trì và hoãn các dự án, nhưng một số thương nhân cho biết họ nghi ngờ về bất kỳ sự cắt giảm sản lượng nào.
Nhà phân tích Nicholas Snowdon của Goldman Sachs viết trong một ghi chú rằng việc chạm đáy trong chu kỳ công nghiệp toàn cầu dự kiến sẽ thúc đẩy giá đồng.
Snowdon cho biết thêm, các mức đáy trước đây trong chu kỳ sản xuất toàn cầu có liên quan đến xu hướng tăng giá kim loại bền vững sau đó, với giá đồng và nhôm tăng trung bình 25% và 9% trong 12 tháng tới.
Dữ liệu từ Cục Thống kê Kim loại Thế giới cho thấy, Trung Quốc chiếm 47% sản lượng đồng tinh luyện toàn cầu vào năm ngoái.
Trung Quốc cũng là nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới, nhưng tăng trưởng kinh tế chậm lại và thiếu sự hỗ trợ kích thích lớn đã khiến triển vọng nhu cầu không thay đổi.
Trên sàn giao dịch London, giá nhôm tăng 1% lên 2.274,50 USD/tấn, giá kẽm tăng 0,4% lên 2.558 USD/tấn và giá thiếc tăng 1,3% lên 28.635 USD/tấn trong khi giá nikel giảm 0,9% xuống 17.920 USD/tấn và giá chì giảm 1,4% xuống 2.127,50 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 6 tháng, trên đà giảm hơn 10% trong tuần, trong bối cảnh nhu cầu mua giao ngay chậm lại và triển vọng nhu cầu ảm đạm ở nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên Trung Quốc đã kết thúc giao dịch trong ngày thấp hơn 3,46% xuống mức 781,5 CNY(tương đương108,61 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 22/8/2023 và giảm hàng tuần là 11% .
Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 4 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 4,1% xuống mức 99 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 1/6. Nó đã giảm 14% so với tuần trước trong tuần này.
Các nhà phân tích tại ngân hàng ANZ cho biết, triển vọng nhu cầu yếu hơn đang làm tăng khả năng cắt giảm sản xuất thép... sản xuất thép ít hơn đồng nghĩa với nhu cầu quặng sắt thấp hơn.
Theo các nhà tư vấn Mysteel và Lange Steel, rủi ro về nhu cầu quặng sụt giảm xuất hiện sau khi một số hiệp hội thép cấp tỉnh đưa ra tuyên bố kêu gọi cắt giảm sản lượng thép hoặc chỉ đề xuất mơ hồ các doanh nghiệp thị trường địa phương cùng nhau thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của ngành thép.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết thêm, các kho dự trữ quặng sắt gần như đã được bổ sung, với lượng tồn kho hiện ở mức cao nhất trong 12 tháng. Tuy nhiên, chúng tôi kỳ vọng giá quặng sắt sẽ ổn định từ góc độ chi phí sản xuất.
Dữ liệu của Mysteel cho thấy tồn kho quặng sắt tại 45 cảng lớn của Trung Quốc được khảo sát đã tăng 1% trong tuần lên khoảng 142,9 triệu tấn tính đến ngày 15/3.
Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA) do nhà nước hậu thuẫn đã tổ chức một cuộc họp với đại diện của một số nhà sản xuất thép lớn, cơ quan nghiên cứu và các nhà quy hoạch nhà nước thảo luận về cơ chế mới về kiểm soát công suất thép và đánh giá chính sách hoán đổi công suất trong ngành mà không đưa ra.
Điều gây áp lực lên tâm lý còn là sự sụt giảm kéo dài của giá nhà mới trong tháng 2 tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cho thấy thị trường bất động sản đang rất mong manh.
Giá các thành phần sản xuất thép khác trên DCE có thể yếu hơn, với giá than cốc và than luyện cốc giảm lần lượt 2,89% và 1,72%.
Giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải nhìn chung đã giảm. Thép cây giảm 1,77%, thép cuộn cán nóng giảm 1,20%, thép thanh giảm 1,09% trong khi thép không gỉ tăng 0,22%.
Bảng so sánh giá các mặt hàng kim loại thế giới ngày 15/3/2024
Mặt hàng
|
Hôm nay
|
So với
hôm qua
|
So với
1 tuần trước
|
So với
1 tháng trước
|
So với
1 năm trước
|
Vàng
USD/ounce
|
2167,15
|
0,28%
|
-0,42%
|
7,71%
|
12,98%
|
Bạc
USD/ounce
|
25,050
|
0,93%
|
3,19%
|
7,19%
|
15,54%
|
Đồng
USD/Lbs
|
4,1014
|
1,60%
|
5,71%
|
6,99%
|
6,11%
|
Thép
CNY/Tấn
|
3443,00
|
-1,80%
|
-5,07%
|
-11,51%
|
-19,08%
|
Quặng sắt
USD/Tấn
|
105,50
|
-1,86%
|
-10,97%
|
-17,58%
|
-21,56%
|
Lithium
CNY/Tấn
|
115500
|
0,00%
|
6,45%
|
18,46%
|
-63,85%
|
Bạch kim
USD/ounce
|
932,96
|
0,59%
|
2,38%
|
3,17%
|
-3,95%
|
Thép cuộn
USD/Tấn
|
850,00
|
-0,12%
|
-1,16%
|
4,94%
|
-30,27%
|
Chì
USD/Tấn
|
2147,31
|
-0,71%
|
1,89%
|
4,51%
|
4,10%
|
Nhôm
USD/Tấn
|
2274,00
|
1,00%
|
1,52%
|
2,52%
|
0,29%
|
Thiếc
USD/Tấn
|
28065
|
1,98%
|
3,21%
|
2,18%
|
22,29%
|
Kẽm
USD/Tấn
|
2572,00
|
0,94%
|
1,76%
|
7,84%
|
-9,99%
|
Nickel
USD/Tấn
|
17866
|
-1,43%
|
0,55%
|
11,61%
|
-21,60%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC