Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2017 hàng hóa từ Thái Lan nhập khẩu vào Việt Nam tăng 6,2% so với tháng liền kề trước đó, trị giá 940,65 triệu USD; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan 8 tháng đầu năm 2017 lên gần 6,57 tỷ USD (tăng 21,4% so với 8 tháng đầu năm ngoái).
Trong 8 tháng đầu năm nay, Việt Nam nhập siêu từ thị trường Thái Lan trên 3,49 tỷ USD (tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái).
Trong số 43 nhóm hàng chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Thái Lan thì nhóm điện gia dụng và linh kiện đứng đầu về kim ngạch, trị giá trên 646,05 triệu USD chiếm 9,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại từ thị trường này, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm 2016.
Rau quả là nhóm hàng nhập khẩu lớn thứ 2 từ thị trường Thái Lan, chiếm 9,4% trong tổng kim ngạch, đạt 617,81 triệu USD, tăng mạnh 182% so với cùng kỳ.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng cũng nhập khẩu rất nhiều từ thị trường này, đứng thứ 3 về kim ngạch (đạt 588,25 triệu USD, chiếm 9%, tăng 12%); sau đó là nhóm ô tô nguyên chiếc (đạt 431,85 triệu USD, chiếm 6,6%, tăng 10,5%); xăng dầu (đạt 407 triệu USD, chiếm 6,2%, tăng 61%).
Trong số các loại hàng hóa nhập khẩu từ thị trường Thái Lan trong 8 tháng đầu năm nay có rất nhiều nhóm hàng tăng mạnh về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; đáng chú ý nhất là nhóm nguyên phụ liệu thuốc lá, mặc dù chỉ đạt 0,4 triệu USD nhưng so với cùng kỳ thì tăng rất mạnh tới 946% về kim ngạch; bên cạnh đó có rất nhiều nhóm hàng tăng mạnh trên 100% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái như: rau quả (tăng 182%, trị giá 617,81 triệu USD); dầu mỡ động thực vật (tăng 129%, trị giá 9,21 triệu USD); cao su (tăng 119%, trị giá 74,67 triệu USD); ngô (tăng 212%, trị giá trên 48,13 triệu USD); kim loại thường (tăng 185%, trị giá 149,72 triệu USD).
Ngược lại, nhập khẩu nguyên phụ liệu dược phẩm từ Thái Lan giảm rất mạnh 88% so với cùng kỳ, chỉ đạt 0,78 triệu USD; bên cạnh đó, phân bón nhập khẩu cũng giảm 30% và nhập khẩu sữa từ Thái Lan cũng giảm mạnh 22% so với 8 tháng đầu năm ngoái.
Hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan 8 tháng đầu năm 2017. ĐVT: USD
Mặt hàng
|
8T/2017
|
8T/2016
|
% so sánh
|
Tổng kim ngạch
|
6.568.660.934
|
5.411.711.365
|
+21,38
|
Hàng điện gia dụng và linh kiện
|
646.047.165
|
681.642.338
|
-5,22
|
Hàng rau quả
|
617.808.660
|
218.813.145
|
+182,35
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
588.246.964
|
525.414.435
|
+11,96
|
Ô tô nguyên chiếc các loại
|
431.853.790
|
390.993.614
|
+10,45
|
Xăng dầu các loại
|
406.995.122
|
252.615.683
|
+61,11
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
403.387.536
|
352.284.221
|
+14,51
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
368.432.750
|
252.908.437
|
+45,68
|
Linh kiện, phụ tùng ô tô
|
339.610.566
|
437.073.711
|
-22,30
|
Hóa chất
|
241.766.482
|
146.769.194
|
+64,73
|
Sản phẩm hóa chất
|
163.612.095
|
141.048.022
|
+16,00
|
Sản phẩm từ chất dẻo
|
153.876.065
|
133.228.949
|
+15,50
|
Kim loại thường khác
|
149.717.269
|
52.478.883
|
+185,29
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
149.246.867
|
136.219.012
|
+9,56
|
Vải các loại
|
148.359.459
|
126.611.480
|
+17,18
|
Giấy các loại
|
114.792.317
|
108.638.005
|
+5,66
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
104.748.016
|
99.328.879
|
+5,46
|
Cao su
|
74.665.788
|
34.030.006
|
+119,41
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
70.364.454
|
57.585.590
|
+22,19
|
Xơ, sợi dệt các loại
|
70.231.856
|
69.215.026
|
+1,47
|
Sản phẩm từ giấy
|
57.289.570
|
49.166.099
|
+16,52
|
Dược phẩm
|
56.827.421
|
60.125.483
|
-5,49
|
Sắt thép các loại
|
56.238.754
|
47.234.662
|
+19,06
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
53.481.531
|
61.557.326
|
-13,12
|
Dây điện và dây cáp điện
|
51.668.933
|
42.470.002
|
+21,66
|
Sản phẩm từ cao su
|
50.642.181
|
44.775.754
|
+13,10
|
Ngô
|
48.134.491
|
15.420.927
|
+212,14
|
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh
|
46.385.341
|
39.798.783
|
+16,55
|
Sữa và sản phẩm sữa
|
41.846.591
|
53.917.963
|
-22,39
|
Sản phẩm từ kim loại thường khác
|
40.269.538
|
38.426.358
|
+4,80
|
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh
|
38.913.982
|
28.724.098
|
+35,48
|
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
|
33.920.458
|
17.672.498
|
+91,94
|
Quặng và khoáng sản khác
|
33.008.053
|
41.130.965
|
-19,75
|
Sản phẩm khác từ dầu mỏ
|
32.642.542
|
19.835.814
|
+64,56
|
Chế phẩm thực phẩm khác
|
30.482.787
|
28.259.394
|
+7,87
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
25.743.437
|
24.587.783
|
+4,70
|
Khí đốt hóa lỏng
|
17.772.267
|
-
|
*
|
Hàng thủy sản
|
13.218.196
|
12.192.722
|
+8,41
|
Dầu mỡ động thực vật
|
9.207.560
|
4.019.882
|
+129,05
|
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
6.501.409
|
3.602.581
|
+80,47
|
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
6.410.617
|
6.141.861
|
+4,38
|
Phân bón các loại
|
4.950.949
|
7.030.929
|
-29,58
|
Nguyên phụ liệu dược phẩm
|
778.033
|
6.761.149
|
-88,49
|
Nguyên phụ liệu thuốc lá
|
394.167
|
37.668
|
+946,42
|
(Tính toán theo số liệu của TCHQ)
Cần hạn chế nhập siêu từ thị trường Thái Lan
Theo phân tích từ các chuyên gia thương mại, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu từ Thái Lan bởi nhiều mặt hàng trong nước đã sản xuất thành công, tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn nhập khẩu từ Thái Lan gồm các mặt hàng điện, điện tử gia dụng và linh kiện, rau quả, máy vi tính, sản phẩm nhựa, sắt thép, các sản phẩm gia dụng (chất tẩy rửa, mỹ phẩm, đồ dùng nhà bếp, sản phẩm nội thất… )
Trong 8 tháng đầu năm nay, riêng lượng rau quả nhập khẩu từ thị trường Thái Lan chiếm tới 61% trong tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả các loại của Việt Nam từ thế giới, gấp gần 25 lần kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Thái Lan 8 tháng đầu năm 2017.
Đáng lưu ý, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Thái Lan các loại rau quả gồm: các loại đậu hạt, nấm, sầu riêng, dâu tây, chôm chôm, bòng bong, nhãn, măng cụt, mít, me, mận, mơ, xoài, bơ, ổi, chà là, bưởi, cam, dừa, hạt điều... Trong khi đó, Thái Lan mới chỉ cấp phép cho thanh long, vải và nhãn của Việt Nam được chính thức nhập khẩu vào thị trường Thái Lan.
Hơn nữa, Việt Nam thực hiện lộ trình giảm thuế theo cam kết trong hưởng thuế suất thuế ưu đãi theo lộ trình cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) khiến nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Thái Lan đã được hưởng thuế suất này. Cho đến nay, Việt Nam đã xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với xấp xỉ 90% tổng số dòng thuế và sẽ xóa bỏ thuế đối với 98% số dòng thuế vào năm 2018.
Thái Lan đã thiết lập kênh phân phối vững chắc và đang tiếp tục mở rộng tại Việt Nam. Các tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan như Central Group, TCC Group đã tiến hành mua bán, sáp nhập các chuỗi bán lẻ tại Việt Nam thời gian qua và tiếp tục có kế hoạch mở rộng tại Việt Nam. Đây là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Thái đưa trực tiếp hàng Thái tới người tiêu dùng Việt Nam.
Hơn nữa, người tiêu dùng Việt Nam vẫn có tâm lý ưa chuộng hàng Thái Lan, cả về giá cả, mẫu mã và chất lượng, đặc biệt là các mặt hàng điện, điện tử, sản phẩm gia dụng, hoa quả và hàng tiêu dùng khác.
Trên cơ sở nhận định những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhập siêu từ Thái Lan trong thời gian qua và một số đề xuất, kiến nghị của các đơn vị liên quan, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã chỉ đạo các đơn vị phải chủ động và quyết liệt thực hiện các biện pháp đã được xác định nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang Thái Lan, khắc phục và giảm dần tình trạng nhập siêu, hướng tới một cán cân thương mại giữa hai nước cân bằng hơn trong thời gian tới.
Theo đó, Bộ trưởng yêu cầu các đơn vị tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý nhập khẩu theo quy định để đảm bảo chất lượng của các sản phẩm nhập khẩu từ Thái Lan đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường.
Mặt khác, Bộ trưởng đề nghị hệ thống siêu thị do doanh nghiệp Thái Lan sở hữu tăng cường hỗ trợ giới thiệu, bán, tiêu thụ các sản phẩm của Việt Nam, hợp tác với các Tập đoàn phân phối bán lẻ của Thái Lan (Central Group, TCC) để tổ chức Tuần hàng Việt Nam và Hội nghị kết nối mua hàng Việt Nam.
Đặc biệt, các đơn vị cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cũng như các chương trình tuyên truyền, cổ vũ dùng hàng nội địa khác cho người tiêu dùng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại thị trường Thái Lan, tiếp tục hỗ trợ các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp tổ chức hoặc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại tại thị trường Thái Lan. Đồng thời, tăng cường hoạt động thông tin, phổ biến các cơ hội tiếp cận thị trường Thái Lan có được từ việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN và việc thực thị Hiệp định ATIGA; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng Chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D khi xuất khẩu sang Thái Lan.
Đối với nông sản, trái cây, các đơn vị thuộc ngành công thương cho rằng, cần tập trung xây dựng vùng quy hoạch, hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm trái cây Việt Nam có chất lượng tốt và đồng đều, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế; hỗ trợ công tác quảng bá, chỉ dẫn địa lý sản phẩm; từng bước hướng tới nền nông nghiệp sạch và hữu cơ.
Bộ Công Thương cũng cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành, địa phương liên quan trong việc quản lý hàng hóa nhập khẩu từ các nước và Thái Lan nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm nhập khẩu và hiệu quả nhập khẩu, đồng thời thúc đẩy đàm phán để Thái Lan tiếp tục mở của thị trường cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, để có thể khẳng định chất lượng hàng Việt và có được niềm tin của người tiêu dùng, chính các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, đưa ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về chất lượng và mẫu mã với giá thành cạnh tranh để có thể cạnh tranh được với hàng Thái Lan.
Có ý kiến cho rằng cần đưa ra hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu, song Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, hàng rào kỹ thuật không phải để hạn chế nhập khẩu mà là để nâng cao chất lượng sản phẩm nội địa, nếu không Việt Nam không bao giờ cạnh tranh được trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Do đó, bên cạnh các hoạt động trong ngành, cần phối hợp với các bộ ngành khác trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, xúc tiến thương mại. Hiện công tác này vẫn còn nhiều hạn chế nên cần khắc phục mạnh mẽ trong thời gian tới.
Nguồn:Vinanet