Hiệp định thương tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực, tạo động lực phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và cho ngành dệt may nói riêng. Theo tính toán từ số liệu thống kê của hải quan Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường trên thế giới 8 tháng năm 2025 đạt trên 26,47 tỷ USD, tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó xuất khẩu sang EU chiếm 11,76% trong tổng kim ngạch, đạt trên 3,11 tỷ USD, tăng 13,12%. Tuy nhiên, trong tháng 8/2025 kim ngạch giảm 20,09% so với tháng 7/2025 và giảm 2,76% so với tháng 8/2024, đạt trên 397,82 triệu USD.
Trong số các đối tác trong EVFTA, trong tháng 8/2025 Việt Nam xuất hàng dệt may nhiều nhất sang các thị trường: Hà Lan đạt gần 108,84 triệu USD, Đức đạt trên 67,12 triệu USD, Tây Ban Nha đạt gần 69,02 triệu USD, Pháp đạt gần 47,15 triệu USD. Trong đó, một số thị trường đáng chú ý về mức tăng trưởng cao như: Luxembourg tăng 266,38% so với tháng 7/2025, mặc dù chỉ đạt 431.986 USD; Slovakia tăng 55,32%, đạt 633.316 USD. Ngược lại, xuất khẩu giảm mạnh ở các thị trường như: Séc giảm 41,74% so với tháng 7/2025, đạt 1,95 triệu USD; Phần Lan giảm 68,89%, đạt 195.134 USD; Malta giảm 76,84%, đạt 36.194 USD.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2025, Hà Lan và Đức là 2 thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, riêng 2 thị trường nay đã chiếm gần 48% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang khối EU. Xuất khẩu sang Hà Lan nhiều nhất trên 881,85 triệu USD, chiếm 28,34% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU; Xuất khẩu sang Đức đạt trên 599,83 triệu USD, chiếm 19,27%.
Theo tính toán từ số liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) của WTO, trong 6 tháng đầu năm 2025 hàng dệt may nhập khẩu từ các nước trên thế giới vào thị trường EU chủ yếu là mã hàng HS61 (các loại quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc) và HS62 (các loại quần áo và các hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim hoặc móc). Kim ngạch nhập khẩu các loại quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc (mã HS 61) vào thị trường EU trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 50,57 tỷ USD, tăng 11,25% so với cùng kỳ năm 2024; Đức vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất nhóm hàng dệt may mã HS61, chiếm 22,54% trong tổng kim ngạch, đạt 11,4 tỷ USD; tiếp đến thị trường Pháp chiếm 11,95% trong tổng kim ngạch, đạt 6,04 tỷ USD; Tây Ban Nha chiếm 10,43%, đạt 5,28 tỷ USD; Hà Lan chiếm 10,25%, đạt 5,18 tỷ USD; Ý chiếm 9,27%, đạt 4,69 tỷ USD; Ba Lan chiếm 8,29%, đạt 4,19 tỷ USD.
Nhập khẩu nhóm hàng dệt may mã HS62 vào thị trường EU đạt trên 50,23 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, Đức dẫn đầu về kim ngạch, với gần 10,81 tỷ USD, chiếm 21,51% trong tổng kim ngạch nhập khẩu mã hàng này của toàn khối EU. Tiếp đến thị trường Pháp đạt gần 6,4 tỷ USD, chiếm 12,75%; Tây Ban Nha đạt gần 5,73 tỷ USD, chiếm 11,4%; Hà Lan đạt trên 4,91 tỷ USD, chiếm 9,78%; thị trường Ý đạt trên 4,72 tỷ USD, chiếm 9,4%; Ba Lan đạt trên 4,54 tỷ USD, chiếm 9,05%.
Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU năm 2025 sẽ đạt 4,7 - 5,2 tỷ USD. Dự báo xuất khẩu dệt may sang EU năm 2026 sẽ đạt kết quả tích cực, nhờ sự phục hồi kinh tế toàn cầu, hiệp định thương mại EVFTA có hiệu lực giúp các sản phẩm dệt may tiếp cận thị trường EU dễ dàng hơn và xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng, các công ty đa quốc gia có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước có chi phí cạnh tranh và năng lực ESG tốt, trong đó có Việt Nam. Nhu cầu về các sản phẩm dệt may kỹ thuật cao và bền vững tại EU ngày càng tăng, mở ra cơ hội cho các nhà sản xuất Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ, sản xuất bền vững và đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) để duy trì khả năng cạnh tranh.
Giải pháp đẩy mạnhxuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EVFTA
Để tháo gỡ nút thắt về quy tắc xuất xứ trong EVFTA, các địa phương cần thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và khuyến khích phát triển các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu là đầu mối cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may nhằm chủ động nguyên liệu đầu vào có xuất xứ. Không chỉ thế, EU đang thắt chặt các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất, kiểm soát nguồn nguyên liệu và các chất độc hại đối với môi trường sinh ra từ quá trình sản xuất vải, chế biến vải, các quá trình dệt, nhuộm, gia công,…
Để đáp ứng quy định, đặt ra yêu cầu phát triển các khu công nghiệp dệt may, do vậy xây dựng hệ thống xử lý chất thải chuyên ngành chung hiện đại, bao gồm việc xử lý cả chất thải rắn và lỏng và thu phí các doanh nghiệp theo yêu cầu cần xử lý chất thải cũng là định hướng mà các địaphương có thể quan tâm thúc đẩy, hỗ trợ các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kết nối với nhà cung cấp nước ngoài khi được yêu cầu.
Giải pháp chung là giảm chi phí và thời gian tham gia thị trường cho các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động nguồn lực cho sản xuất. Tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), đồngthời kiểm soát chặt chẽ các TTHC ngay từ khi dự thảo các văn bản quy phạm phápluật liên quan; tiếp tục đơn giản hóa, hiện đại hóa hoạt động cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O): tổ chức thực hiện và theo dõi triển khai việc phân luồng doanhnghiệp trong quy trình cấp C/O ưu đãi; đẩy mạnh cấp C/O qua Internet. Đồng thời,cần phát triển lĩnh vực dịch vụ logistics phục vụ cho xuất khẩu dệt may nhằm nâng cao năng lực và tính liên kết của các doanh nghiệp logistics trong nước, rà soát đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, luồng lạch, kho tàng bến bãi tại các cảng biển và các địa điểm thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu.
Cần chú trọng thông tin, cập nhật cho doanh nghiệp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại và yêu cầu mới về chất lượng sản phẩm hàng dệt may của EU và động viên, hỗ trợ doanh nghiệp dệt may Việt Nam phát triển các kênh phân phối trực tiếp tại EU, triển khai Đề án Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài; tiếp tục triển khai các hình thức xúc tiến thương mại trực tuyến, đổi mới, sáng tạo áp dụng các hoạt động xúc tiến thương mại mới cho ngành dệt may.
Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) tiếp tục là cầu nối giữa các doanh nghiệp dệt may với các cơ quan quản lý Nhà nước để phản ánh những vướng mắc về cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, kiểm tra chuyên ngành, thuế, hải quan,… để kịp thời xem xét, tạo thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp tận dụng cam kết ưu đãi từ EVFTA. Do quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA yêu cầu sự tham gia lớn của nguồn nguyên liệu trong khu vực FTA, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất, chế biến sâu, tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong khu vực hoặc phát triển các nguồn nguyên liệu từ trong nước. Đồng thời, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, tham gia các hoạt động tập huấn chuyên sâu để có thể hiểu rõ, hiểu đúng các quy định về quy tắc xuất xứ, tự tin áp dụng.
Các doanh nghiệp cũng cần nắm bắt nhu cầu từng thị trường trong từng tình hình cụ thể để phát triển và sản xuất các mặt hàng phù hợp. Trong dài hạn, nâng cao và đa dạng hoá chất lượng sản phẩm là yếu tố then chốt để đảm bảo tăng trưởng bền vững của xuất khẩu. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao năng lực sản xuất theo hướng dịch chuyển phương thức từ gia công cắt may thuê lên FOB (mua nguyên liệu - sản xuất - bán thành phẩm) và ODM (thiết kế - sản xuất - bán thành phẩm) nhằm đáp ứng những thay đổi quan trọng trên thị trường dệt may thế giới, tiến đến xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ nguyên liệu, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm để tối ưu hoá lợi nhuận và tận dụng nguồn nhân lực.
Sản xuất sản phẩm may mặc có chất lượng và giá trị cao đòi hỏi đội ngũ nhân lực giỏi chuyên môn, sáng tạo, có khả năng thích ứng với những chuyển giao công nghệ,vì vậy việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0 cần được đặc biệt chú trọng. Hiệp hội, doanh nghiệp có thể kết hợp với các cơ sở đào tạo thiết kế bài giảng theo hướng công nghệ gắn liền thực tiễn, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển. Để thúc đẩy tăng tỷ lệ nội địa hóa và giảm tình trạng phụ thuộc nguyên liệu may nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần có kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất vải nguyên liệu trong nước; tìm kiếm nguồn cung thay thế thông qua việc tăng cường liên kết, tận dụng tối đa các thị trường mới mở ra từ hiệp định thương mại EVFTA, tích cực tìm kiếm, cung cấp và cập nhật thường xuyên danh sách các nhà phân phối, sản xuất, xuất khẩu nguyên phụ liệu cho ngành dệt may.
Nguồn:Vinanet/VITIC