menu search
Đóng menu
Đóng

TT hàng hoá thế giới phiên 27/8: Giá dầu và vàng giảm

11:17 28/08/2020

Phiên giao dịch vừa qua, giá dầu và vàng giảm trong khi một số mặt hàng như đồng, thép, nông sản… tăng.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm trong phiên vừa qua do thị trường dự đoán hoạt động sản xuất dầu mỏ tại Mỹ sẽ nhanh chóng phục hồi sau bão Laura.
Chốt phiên này, giá dầu Brent giao tháng10/2020 giảm 55 US cent (1,2%) xuống 45,09 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 35 xu (0,8%) xuống còn 43,04 USD/thùng.
Cơn bão Laura đổ bộ vào bang Louisiana sáng sớm ngày 27/8 (theo giờ địa phương) đang dần suy yếu từ bão cấp 4 thành bão cấp 2. Cơn bão mang theo gió mạnh, mưa lớn và lũ lụt, gây mất điện cho 400.000 người dân sống ở Louisiana và Texas.
Trước khi bão đến, các nhà sản xuất dầu mỏ đã đóng cửa các cơ sở sản xuất dầu thô tương đương sản lượng 1,56 triệu thùng/ngày (84% sản lượng của khu vực Vịnh Mexico), sơ tán 310 cơ sở ngoài khơi. Tuy nhiên, ngày 27/8, các cơ sở này đã chuẩn bị hoạt động trở lại. Jennifer Rowland, nhà phân tích của Edward Jones ở St. Louis, nhận định các nhà máy đã trải qua nhiều tình huống tương tự, do đó việc phục hồi hoạt động sản xuất có thể diễn ra trong vòng vài ngày.
Tập đoàn BP đang chuẩn bị cho các cơ sở sản xuất tại Vịnh Mexico hoạt động trở lại. Trong khi đó, Exxon Mobil Corp cho hay họ đang liên hệ với những nhân viên của nhà máy hóa chất và lọc dầu có công suất 369.000 thùng/ngày ở Beaumont, Texas, và chuẩn bị đánh giá thiệt hại sơ bộ. Nhà máy này là một trong sáu nhà máy nằm dọc Bờ Vịnh đã đóng cửa trong tuần này do tác động của bão.
Tại Châu Á, giá một số loại dầu thô giao ngay giảm xuống mức thấp hơn dầu Brent do nhu cầu từ các nhà máy lọc dầu trong khu vực yếu làm giảm lợi nhuận của họ. Khoảng chênh lệch giá giữa dầu thô có hàm lượng lưu huỳnh thấp với dầu thô Trung Đông thu hẹp dần lại.
Chênh lệch giá giữa dầu thô kỳ hạn tháng 10 của Malaysia và Việt Nam so với dầu Brent đã giảm hơn 3 USD/thùng so với hàng giao vào tháng 9 trong hợp đồng cách đây một tháng.
Theo Reuters, thông thường, các nhà tinh chế dầu sẽ phải mua dầu thô hàm lượng lưu huỳnh thấp với giá đắt hơn so với dầu thô Trung Đông – có hàm lượng lưu huỳnh cao. Tuy nhiên, lợi nhuận trung bình từ việc chưng cất dầu trong 2 tuần qua đã giảm khoảng 1 USD/thùng, làm giảm nhu cầu đối với dầu thô Malaysia và Việt Nam.
Cũng theo nguồn Reuters, dầu thô Labuan của Malaysia giao tháng 10 hiện có giá thấp hơn 1 USD/thùng so với dầu Brent, so với mức cộng 2 USD/thùng hồi đầu tháng 8/2020. Cách đây 1 tháng, dầu Labuan kỳ hạn tháng 9 có giá +4 USD so với dầu Brent. Dầu Kimanis của Malaysia hiện giá +30 US cent/thùng, so với +3,5 USD/thùng cách đây một tuần. Dầu Thăng Long và Ruby của Việt Nam giao cùng kỳ hạn cũng đang giảm giá, xuống thấp hơn dầu Brent, so với mức +3,5 USD cách đây một tháng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do các nhà đầu tư chốt lời sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell phát biểu về quan điểm chính sách của ngân hàng trung ương Mỹ này. Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.931,96 USD/ounce; vàng giao sau giảm 1% xuống 1.932,60 USD/ounce.
Phát biểu tại Hội nghị thường niên Jackson Hole về chính sách tiền tệ, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell ngày 27/8 cho biết Fed đã thay đổi chính sách và sẽ cho phép lạm phát tăng để nền kinh tế Mỹ có thể tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Ông Powell nhấn mạnh sự thay đổi này có nghĩa lạm phát của Mỹ có thể tăng lên hơn mức mục tiêu 2% vào một thời điểm nào đó trước khi Fed sẽ có hành động bằng cách tăng lãi suất.
Các số liệu kinh tế khả quan của Mỹ cũng góp phần làm giảm giá vàng. Bộ Lao động Mỹ cho biết một triệu người đã nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần tính đến hết ngày 22/8, giảm nhẹ so với mức 1,1 triệu người trong tuần trước đó, tốt hơn dự kiến. Bộ Thương mại Mỹ cũng điều chỉnh mức giảm Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này trong quý II/2020 xuống 31,7%, so với mức giảm 32,9% được công bố trước đó.
Mặc dù giá vàng giảm trong phiên vừa qua, song các chuyên gia kinh tế cho rằng, bình luận của ông Powell cho thấy quá trình hồi phục của nền kinh tế Mỹ sau Covid-19 sẽ mất nhiều thời gian, và ngân hàng trung ương sẽ hỗ trợ quá trình hồi phục này – yếu tố sẽ có lợi cho giá vàng trong tương lai.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,8% xuống 27,01 USD/ounce, palađi giảm 1,2% xuống 2.171,7 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,9% xuống 920,41 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng trong phiên vừa qua vì bài phát biểu của ông Powell cho thấy Fed sẽ hướng đến thúc đẩy lạm phát của Mỹ tăng – động thái có thể làm cho đồng USD suy yếu, từ đó đẩy giá các hàng hóa tính theo USD tăng lên.
Hiện USD đang giao dịch ở mức thấp nhất trong vòng gần 2 năm, khiến cho những hàng hóa giao dịch bằng USD trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Kết thúc phiên giao dịch, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,2% lên 6.615 USD/tấn, gần sát mức cao nhất 2 năm là 6.707 USD/tấn đạt được vào tuần trước.
Giá nickel giảm 0,2% trong phiên vừa qua, song vẫn quanh mức cao nhất kể từ tháng 11 năm ngoái, do lo ngại nguồn cung từ Indonesia có thể sẽ tiếp tục khan hiếm. Nickel là nguyên liệu sản xuất thép không gỉ. Kết thúc phiên giao dịch, nickel kỳ hạn giao sau 3 tháng chốt ở 15/130 USD/tấn.
Giá thép trên thị trường Trung Quốc tăng trong phiên vừa qua do nhu cầu tiêu thụ mạnh và triển vọng nhu cầu sẽ tiếp tục tăng trong mùa xây dựng. Kết thúc phiên giao dịch, thép thanh vằn kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,2% lên 3.717 CNY (540,356 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 0,5% lên 3.946 CNY/tấn; thép không gỉ tăng 0,1% lên 15.090 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) kỳ hạn giao tháng 1/2020 giảm 0,4% xuống 815 CNY/tấn. Quặng sắt 62% nhập khẩu giao ngay tới Trung Quốc trong phiên trước đó (26/8) giảm 0,5% xuống 122 USD/tấn.
"Các nhà máy thép đang tăng tốc sản xuất khi mùa xây dựng cao điểm sắp tới", Citi Reserch viết trong một thông báo gửi tới khách hàng, và dự báo nhu cầu thép của Trung Quốc từ nay đến cuối năm sẽ tăng.
Trên thị trường nông sản, giá ngô, đậu tương và lúa mì tăng do dự báo thời tiết ở khu vực Trung Tây Brazil có thể khô hạn sẽ ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng của cây đúng lúc cây đang rất cần nước tưới, từ đó nguy cơ ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng ngũ.
Việc Trung Quốc tăng cường mua ngô Mỹ càng góp phần đẩy giá ngô tăng lên.
Kết thúc phiên giao dịch, ngô kỳ hạn tháng 12 tăng tăng 4-1/4 US cent lên 3,58-1/2 USD/bushel, đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 17-3/4 US cent lên 9,42 USD/bushel, trong khi lúa mì đỏ mềm vụ Đông kỳ hạn giao tháng 12 tăng 11 US cent lên 5,30-3/4 USD/bushel.
Giá cà phê robusta giảm trong phiên vừa qua, mà lý do theo các đại lý là bởi họ đã mua quá mức trước đó, khi thấy lượng tồn trữ cà phê cả arabica và robusta tại các kho của các sàn giao dịch đều ở mức thấp. Robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 11 USD (1,5%) xuống 1.405 USD/tấn; arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 0,25 US cent (0,2%) lên 1,2235 USD/lb.
Safras & Mercado cho biết Brazil đã thu hoạch được 96% sản lượng vụ này, tương đương mức trung bình 95% của thời điểm này trong 5 năm vừa qua, cho thấy mùa vụ tiến triển tốt.
Tại Châu Á, giá cà phê Việt Nam trên thị trường trong nước đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 1 năm do giá trên sàn liên lục địa ICE tăng và nguồn cung khan hiếm khi đang cuối vụ thu hoạch. Trong khi đó, giá cà phê Indonesia tiếp tục giảm do nguồn cung tăng.
Tại khu vực Tây Nguyên, cà phê nhân xô hiện giá 34.000 – 35.000 đồng (1,47 – 1,49 USD)/kg, mức cao nhất kể từ tháng 8/2019. Cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) xuất khẩu giá cộng 80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 trên sàn London của phiên 26/7, so với mức cộng 80 -90 USD/tấn cách đây một tuần.
Vụ mùa mới 2020/21 của Việt Nam đang tiến triển tốt, mưa thuận lợi và quả có vẻ lớn không kém năm trước, hứa hẹn sản lượng sẽ cao.
Tại Indonesia, cà phê Sumatra của tỉnh Lampung giá giảm do nguồn cung tăng vì đang vụ thu hoạch. Cụ thể, một doanh nghiệp Indonesia báo loại này giá +140 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 trên sàn London, thấp hơn mức +160 USD/tấn của tuần trước, trong khi một doanh nghiệp khác báo giá +200 USD/tấn, so với +210 USD/tấn của tuần trước.
Giá đường tăng trong phiên vừa qua. Đường thô kỳ hạn tháng 10 trên sàn New York tăng 0,19 US cent (1,5%) lên 12,77 US cent/lb do bão Laura gây thiệt hại cho các cánh đồng mía ở bang Louisiana của Mỹ, làm cây đổ rạp trong khi tháng 9 sẽ là lúc thu hoạch mía. Đường trắng giao cùng kỳ han trên sàn London cũng tăng 2,5 USD (0,7%) lên 362 USD/tấn.
Cục Nông trại Louisiana và Trung tâm Nông nghiệp tại Đại học Bang Louisiana ước tính khoảng 500.000 mẫu Anh đất trồng mía của bang Louisiana bị ảnh hưởng bởi cơn bão này.
Tuy nhiên, thị trường thế giới vẫn dồi dào nguồn cung đường thô do các nhà máy Brazil tiếp tục tăng sản lượng thêm khoảng 50% trong năm nay.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng phiên thứ 4 liên tiếp, đạt mức cao mới trong vòng 6 tháng, do lo ngại nguồn cung khan hiếm ở Thái Lan do thiếu nhân lực vì dịch Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Osaka tăng 2,8 JPY lên 184,3 JPY (1,74 USD)/kg. Đầu phiên có lúc giá đạt 185,6 JPY, cao nhất kể từ 26/2. Trên sàn Thượng Hải, hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 35 CNY lên 12.615 CNY (1.834 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 28/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,93

-0,11

-0,26%

Dầu Brent

USD/thùng

45,09

-0,55

-1,21%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.570,00

-250,00

-0,81%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,58

+0,12

+4,79%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

127,77

-0,68

-0,53%

Dầu đốt

US cent/gallon

121,20

+0,13

+0,11%

Dầu khí

USD/tấn

362,50

-8,50

-2,29%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.740,00

-40,00

-0,09%

Vàng New York

USD/ounce

1.933,80

+1,20

+0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.626,00

+18,00

+0,27%

Bạc New York

USD/ounce

27,25

+0,05

+0,19%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,80

-0,80

-0,86%

Bạch kim

USD/ounce

923,00

-3,24

-0,35%

Palađi

USD/ounce

2.169,94

-9,25

-0,42%

Đồng New York

US cent/lb

299,75

+0,70

+0,23%

Đồng LME

USD/tấn

6.621,00

+27,00

+0,41%

Nhôm LME

USD/tấn

1.781,00

+1,00

+0,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.485,50

+18,50

+0,75%

Thiếc LME

USD/tấn

17.810,00

+260,00

+1,48%

Ngô

US cent/bushel

358,50

+4,25

+1,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

550,75

+11,00

+2,04%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,50

+6,50

+2,46%

Gạo thô

USD/cwt

12,55

+0,24

+1,91%

Đậu tương

US cent/bushel

942,00

+17,75

+1,92%

Khô đậu tương

USD/tấn

303,10

+3,80

+1,27%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,50

+0,97

+2,98%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

497,20

+3,60

+0,73%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.539,00

+63,00

+2,54%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,35

+0,25

+0,20%

Đường thô

US cent/lb

12,77

+0,19

+1,51%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,60

-1,15

-0,99%

Bông

US cent/lb

65,37

-0,21

-0,32%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

794,80

+29,00

+3,79%

Cao su TOCOM

JPY/kg

138,40

+0,80

+0,58%

Ethanol CME

USD/gallon

1,28

-0,01

-0,47%

 

 

Nguồn:VITIC / Reuters, Bloomberg