menu search
Đóng menu
Đóng

Thị trường hàng hóa thế giới năm 2024: Giá cacao và cà phê tăng mạnh nhất

10:00 01/01/2025

Năm 2024, giá dầu, quặng sắt và một số mặt hàng khác giảm. Về những mặt hàng tăng, đáng chú ý nhất là cacao và cà phê. Vàng cũng có một năm tăng giá mạnh. Năng lượng: Giá dầu giảm 3% trong năm 2024, là năm thứ 2 liên tiếp giảm.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm 3% trong năm 2024, là năm thứ 2 liên tiếp giảm
• Giá dầu Brent giảm 3% vào cuối năm 2024 so với cuối năm 2023
• Nhu cầu yếu, nguồn cung dồi dào có thể giữ giá dầu ở mức 70 USD trong năm 2025
• Sản lượng dầu của Mỹ tháng 10/2024 cao kỷ lục.
• Trump có thể tăng cường lệnh trừng phạt dầu mỏ của Iran trong năm 2024, làm thắt chặt nguồn cung dầu toàn cầu
Giá dầu giảm 3% trong năm 2024 – năm giảm thứ 2 liên tiếp do kinh tế Trung Quốc gặp khó khăn, Mỹ và các nước sản xuất khác không thuộc OPEC bơm thêm dầu khi nguồn cung trên thị trường toàn cầu dồi dào, mặc dù nhu cầu tiếp tục hồi phục sau giai đoạn đại dịch.
Chốt phiên giao dịch 31/12, dầu thô Brent tăng 65 US cent tương đương 0,88% lên 74,64 USD/thùng; dầu WTI tăng 73 US cent tương đương 1,03% lên 71,72 USD/thùng.
Giá dầu Brent giảm khoảng 3% so với cuối năm 2023 - là 77,04 USD/thùng, trong khi đó giá dầu WTI gần như không thay đổi so với một năm trước đó.
Trong tháng 9/2024, giá dầu Brent xuống dưới mức 70 USD/thùng – lần đầu tiên – kể từ tháng 12/2021 và năm 2024 giá dầu Brent giao dịch thấp hơn nhiều so với mức cao nhất của vài năm gần đây sau giai đoạn nhu cầu hồi phục mạnh sau đại dịch và cú sốc giá do cuộc xung đột Nga – Ukraine năm 2022 lắng xuống.
Kết quả thăm dò của Reuters cho thấy các nhà phân tích dự đoán giá dầu sẽ giao dịch quanh mức khoảng 70 USD/thùng trong năm 2025, do nhu cầu của Trung Quốc suy yếu và nguồn cung toàn cầu tăng, làm át đi những nỗ lực của OPEC+ trong việc thúc đẩy giá dầu.
Triển vọng nhu cầu dầu của Trung Quốc yếu, buộc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cắt giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2024 và 2025.
IEA dự báo thị trường dầu năm 2025 sẽ dư thừa, ngay cả khi OPEC và các đồng minh trì hoãn kế hoạch tăng sản lượng cho đến tháng 4/2025, trong bối cảnh giá dầu giảm.
Sản lượng dầu của Mỹ tăng 259.000 thùng/ngày lên mức cao kỷ lục 13,46 triệu thùng/ngày (bpd) trong tháng 10/2024, do nhu cầu tăng lên mức cao nhất kể từ đại dịch và dự kiến sản lượng dầu của Mỹ trong năm 2025 sẽ tăng lên mức cao kỷ lục mới (13,52 triệu bpd), Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, và thêm rằng sản lượng sẽ tăng lên mức kỷ lục mới là 13,52 triệu thùng/ngày vào năm 2025.
Trong thời gian tới, các nhà đầu tư sẽ theo dõi triển vọng cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong năm 2025 sau khi các nhà hoạch định chính sách của Fed trong dự định lộ trình giảm lãi suất sẽ chậm lại do lạm phất vẫn ở mức cao. Lãi suất giảm thường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nhu cầu năng lượng.
Một số nhà phân tích vẫn tin rằng nguồn cung có thể thắt chặt vào năm 2025 tùy thuộc vào các chính sách của Tổng thống đắc cử Donald Trump, bao gồm cả các chính sách trừng phạt. "Với khả năng trừng phạt chặt chẽ hơn đối với dầu mỏ của Iran khi Trump nhậm chức, chúng ta đang chứng kiến thị trường dầu mỏ sẽ thắt chặt hơn nhiều khi bước vào năm mới", Phil Flynn, một nhà phân tích cấp cao của Price Futures Group, cho biết, đồng thời trích dẫn nhu cầu tăng mạnh của Ấn Độ và dữ liệu sản xuất mạnh hơn gần đây của Trung Quốc.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc tháng 12 đã mở rộng tháng thứ ba liên tiếp, mặc dù với tốc độ chậm lại, cho thấy một loạt các biện pháp kích thích mới đang giúp hỗ trợ nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 27% trong năm 2024
• Giá vàng thỏi tăng hơn 27% trong năm 2024, là năm tăng thứ 2 liên tiếp
• Giá bạc tăng mạnh nhấ kể từ 2020, tăng hơn 21%
• Giá bạch kim và palladium đều giảm trong năm 2024
Giá vàng tăng hơn 27% trong năm 2024, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2010, được thúc đẩy bởi nhu cầu trú ẩn an toàn và các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất, song nhà đầu tư có thể sẽ thận trọng hơn trong thời gian tới, tùy thuộc vào sự thay đổi chính sách dưới nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ 2 của Donald Trump.
Vàng giao ngay phiên 31/12/2024 tăng 0,7% lên 2.624,24 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2025 tăng 0,9% lên 2.641 USD/ounce.
Hoạt động mua vào mạnh mẽ của ngân hàng trung ương, bất ổn địa chính trị và chính sách nới lỏng tiền tệ đã đẩy giá vàng tăng kỷ lục trong năm 2024, lên mức cao nhất mọi thời đại, là 2.790,15 USD/ounce trong phiên ngày 31/10/2024.
Các nhà phân tích dự kiến các yếu tố hỗ trợ giá vàng thỏi năm 2024 sẽ tiếp tục kéo dài sang năm 2025, song cũng có những trở ngại tiềm ẩn từ chính sách của Trump, có thể làm gia tăng lạm phát và làm chậm quá trình cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
"Vàng đang trong giai đoạn tăng giá dài hạn, nhưng hướng đi trong năm 2025 sẽ không đơn điệu như năm 2024", Nicky Shiels, giám đốc chiến lược kim loại tại MKS PAMP SA cho biết.
"Giai đoạn lo sợ đỉnh điểm về chính trị đã qua sau chiến thắng quyết định của Trump ... Xu hướng mua của Ngân hàng Trung ương sẽ tiếp tục với tốc độ tương tự vào năm 2025, nhưng dòng tiền sẽ vẫn kín đáo hơn do mối đe dọa về thuế quan của Trump đối với các quốc gia được cho là đang tích cực phi USD hóa".
Vàng thỏi phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp, đóng vai trò là hàng rào chống lại rủi ro kinh tế và địa chính trị. Đợt tăng giá đã mất đà vào tháng 11/2024 khi đồng USD mạnh lên do "sự phấn khích liên quan đến Trump".
"Chúng tôi cho rằng xu hướng giá tăng trên thị trường vàng đã tạm dừng sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ nhưng sẽ tiếp tục vào năm 2025 do thị trường lao động Mỹ tiếp tục xấu đi, lãi suất vẫn cao gây áp lực lên tăng trưởng và nhu cầu vàng ETF tăng ", Tom Mulqueen, chiến lược gia phụ trách về kim loại tại Citi Global Markets cho biết.Về những kim loại quý khác, giá bạc năm 2024 tăng mạnh nhất kể từ năm 2020, tăng gần 22%. Giá bạch kim và palađi giảm lần lượt hơn 8% và 17% trong năm 2024.
Phiên 31/12/2024, giá bạc giao ngay giảm giảm 0,3% so với phiên liền trước, xuống 28,87 USD/ounce, giá palladium tăng 0,9% lên 908,67 USD và giá bạch kim giảm 0,1% xuống 903,15 USD.
Mulqueen của Citi dự đoán giá bạc sẽ tăng lên 36 USD/ounce để ứng phó với tình trạng thâm hụt lớn trên thị trường và việc Fed cắt giảm lãi suất cho đến năm 2025. Tuy nhiên, vì những trở ngại đối với tăng trưởng nhu cầu công nghiệp vào năm 2025, ông không kỳ vọng giá bạc sẽ vượt trội hơn giá vàng.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng năm thứ 2 liên tiếp, quặng sắt giảm mạnh
Giá đồng giảm trong phiên 31/12, song tính chung cả năm 2024 tăng năm thứ 2 liên tiếp, trong khi triển vọng giá đồng trong năm 2025 phụ thuộc vào sự phục hồi nền kinh tế Trung Quốc và chính sách của Tổng thống đắc cử Mỹ, Donald Trump.
Đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,5% xuống còn 8.781,5 USD/tấn vào lúc 1647 GMT. Giá đồng đã tăng 2,6% trong cả năm.
Kết thúc phiên, trên sàn London (LME), giá đồng giao sau 3 tháng giảm 1,5% xuống 8.781,5 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm, giá đồng tăng 2,6%.
"Sự sụt giảm nguồn cung tại các mỏ trên khắp thế giới đã góp phần làm thắt chặt thị trường đồng toàn cầu... Về phía cầu, sự phục hồi sản xuất công nghiệp tại các nền kinh tế chủ chốt, cùng với nhu cầu từ quá trình chuyển đổi năng lượng xanh, đã giúp hỗ trợ giá cả", Aneeka Gupta, giám đốc nghiên cứu kinh tế vĩ mô tại WisdomTree, cho biết.
Tháng 5/2024, giá đồng tăng lên mức cao kỷ lục 11.104,5 USD/tấn do cơn sốt mua vào của các quỹ. Tuy nhiên, kể từ đó, giá đã giảm 20% do USD tăng mạnh, các mối đe dọa về thuế nhập khẩu và những hoài nghi về khả năng phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc.
Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ hàng hóa lớn nhất, đang chật vật để hồi phục nền kinh tế trong bối cảnh tiêu dùng yếu và cuộc khủng hoảng bất động sản kéo dài. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách hy vọng một loạt các biện pháp tài chính và tiền tệ gần đây sẽ tạo ra sự thay đổi.
Trong khi đó, Trump trong chiến dịch tranh cử của mình đã đe dọa áp thuế trên 60% đối với hàng hóa Trung Quốc.
"Sự không chắc chắn xung quanh phạm vi và hậu quả của bất kỳ cuộc chiến tranh thương mại nào có thể xảy ra dưới thời chính quyền Trump sắp tới có thể phủ bóng đen lên nhu cầu kim loại công nghiệp", Tim Waterer, nhà phân tích thị trường chính tại KCM Trade cho biết.
"Nếu năm 2025 chứng kiến kinh tế Trung Quốc tiếp diễn tình trạng suy thoái, thì đó thể là lực cản đối với giá đồng".
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME phiên 31/12 tăng nhẹ 0,1% lên 2.553,50 USD/tấn, tính chung cả năm 2024 tăng 7,1%, do tình trạng thiếu nguyên liệu thô. Giá alumina, thành phần chính để sản xuất nhôm nguyên sinh, đã tăng trong năm 2024 do gián đoạn nguồn cung.
Giá kẽm kết thúc phiên giảm 1,3% xuống 2.979,5 USD/tấn, song tính chung cả năm giá tăng 12,2%. Giá thiếc giảm 1,3% xuống 28.915 USD/tấn, song cả năm tăng 13,8%. Giá nickel giảm 0,5% xuống 15.340 USD/tấn, trong khi giá chì tăng 0,4% lên 1.955 USD/tấn. Tính chung cả năm 2024, giá nickel và chì giảm lần lượt 7,6% và 5,5%.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên kết thúc năm 2024 giảm 16%, do nhu cầu của Trung Quốc giảm, biên lợi nhuận của các công ty thép giảm và tồn trữ tại các cảng lớn ở Trung Quốc tăng lên mức cao.
Phiên 31/12/2024, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Đại Liên tăng 1,17% lên 779 CNY (106,73 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm giá giảm 16%, do nhu cầu giảm và sản lượng thép thô của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2024 giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Trên sàn Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2024 tăng 0,23% lên 100,4 USD/tấn, sau khi giảm xuống 99,6 USD/tấn lúc đầu phiên giao dịch; ty nhiên, tính chung cả năm giá giảm 18,5%.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc tháng 12/2024 đã mở rộng tháng thứ ba liên tiếp mặc dù với tốc độ chậm lại, theo kết quả một cuộc khảo sát chính thức về nhà máy cho thấy. Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng tác động của các biện pháp kích thích chính sách có thể mất nhiều thời gian hơn để hỗ trợ nền kinh tế khi rủi ro thương mại mới xuất hiện.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2024 giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước.
Một loạt các biện pháp kích thích mà Bắc Kinh đã công bố từ cuối tháng 9 để thúc đẩy nền kinh tế đang trì trệ của mình đã giúp thị trường sắt thép phục hồi một chút, sau giai đoạn giảm sút do tình hình bất ổn kéo dài của ngành bất động sản ảnh hưởng đến mức tiêu thụ thép mặc dù xuất khẩu thép mạnh mẽ.
Năm mới sẽ chứng kiến tình trạng cung vượt cầu trên thị trường quặng sắt vận chuyển bằng đường biển, Tomas Gutierrez, giám đốc dữ liệu tại công ty tư vấn Kallanish Commodities cho biết. "Xuất khẩu của Úc sẽ tăng lên và một số dự án quan trọng đang được đẩy nhanh... vì vậy giá sẽ chịu áp lực", Gutierrez nói thêm.
Nông sản: Giá cà phê, cacao, dầu cọ tăng mạnh trong năm 2024; đậu tương, lúa mì, đường giảm
Phiên 31/12/2024, giá đậu tương, ngô và lúa mì Mỹ đều tăng do hoạt động mua bù và mối lo ngại về điều kiện thời tiết tại Nam Mỹ và Nga.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2025 tăng 18-3/4 US cent lên 10,1-1/2 USD/bushel, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2025 tăng 6-1/4 US cent lên 4,58-1/2 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/20025 tăng 3-1/4 US cent lên 5,51-1/2 USD/bushel.
Tính chung cả năm 2024, giá đậu tương giảm 22%, giá ngô giảm 2,7% và giá lúa mì giảm 12,2%. Tất cả 3 hàng hóa này đều chạm gần mức thấp nhất kể từ năm 2020.
Giá dầu tăng trong phiên cuối năm, tính chung cả năm cũng tăng sau 2 năm giảm liên tiếp trước đó.
Dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn Bursa (Malaysia) phiên 31/12 giảm 107 ringgit, tương đương 2,35%, xuống 4.444 ringgit (994,63USD)/tấn. Tính chung cả năm, giá tăng hơn 19%, sau 2 năm giảm.
Giá đường năm 2024 giảm do nguồn cung toàn cầu dồi dào, sau khi dư thừa trong cả 2 niên vụ 2022/23 và 2023/24.
Phiên 31/12/2024, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 vững ở mức 19,26 US cent; tính chung cả năm 2024 giảm 6%. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn London kết thúc năm ở mức 507 USD/tấn, tính chung cả năm giá giảm 15%.
Giá cà phê cũng tăng trong năm 2024, được thúc đẩy bởi thời tiết bất lợi ở các nước sản xuất, đặc biệt là hai nước trồng cà phê hàng đầu thế giới là Brazil và Việt Nam.
Thời tiết khô hạn ở Brazil khiến sản lượng thu hoạch năm 2024 thấp hơn dự kiến và sản lượng năm 2025 cũng được dự báo sẽ hạn chế.
Giá cà phê Arabica kết thúc năm ở mức 3,1485 USD/lb, ghi nhận mức tăng hàng năm là 69%. Giá đã tăng lên mức cao kỷ lục là 3,4835 USD vào ngày 10/12/2024.
Cà phê Robusta kết thúc năm ở mức 4.875 USD/tấn, ghi nhận mức tăng hàng năm là 72%.
Giá cacao năm 2024 tăng mạnh, tăng gấp đôi sau khi Tây Phi mất mùa. Bờ Biển Ngà và Ghana, hai quốc gia trồng ca cao hàng đầu thế giới, đều chứng kiến sản lượng giảm mạnh trong mùa vụ 2023/24.
Giá ca cao trên sàn ICE chốt phiên giao dịch 31/12 ở mức 11.675 USD/tấn, ghi nhận mức tăng hàng năm là 178%. Giá đã tăng lên mức cao kỷ lục là 12.931 USD/tấn vào ngày 18/12. Giá ca cao trên sàn London kết thúc năm ở mức 9.143 bảng Anh/tấn, ghi nhận mức tăng hàng năm là 161%.
Giá ca cao đã tăng mạnh trong năm thứ hai liên tiếp sau khi tăng 61% vào năm 2023.
Nước trồng ca cao thứ hai là Ghana đã gặp phải thời điểm đặc biệt khó khăn do dịch bệnh chồi lá, cây già, khai thác vàng bất hợp pháp, biến đổi khí hậu và quản lý yếu kém.
Bờ Biển Ngà và Ghana chiếm hơn một nửa sản lượng ca cao thế giới.
Tổ chức Ca cao Quốc tế ước tính niên vụ 2023/24 (tháng 10/tháng 9) thị trường cacao toàn cầu thiếu hụt mùa thứ 3 liên tiếp, và dự báo năm 2024/25 cũng thiếu cung do thời tiết khô hạn làm giảm triển vọng mùa màng.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng liên tiếp 2 phiên cuối năm do đồng yên yếu đi và thị trường lạc quan về lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc, trong khi các nhà giao dịch tập trung vào điều kiện thời tiết ở quốc gia sản xuất hàng đầu thế giới -Thái Lan.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 của Sàn giao dịch Osaka (OSE) lúc đóng cửa tăng 3,9 yên, hay 1,05%, lên 374,5 yên (2,37 USD)/kg.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1 trên sàn Singapore kết thúc phiên tăng tăng 1,6% lên 197,0 US cent/kg.
Thị trường tài chính Nhật Bản sẽ đóng cửa từ ngày 31 tháng 12 đến ngày 3 tháng 1 do nghỉ lễ. Giao dịch sẽ tiếp tục vào ngày 6 tháng 1.
Hợp đồng cao su tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) kết thúc phiên 31/12 tăng 285 nhân dân tệ, tương đương 1,62%, đóng cửa ở mức 17.885 nhân dân tệ (2.450,30 USD)/tấn.
Đồng yên giao dịch quanh mức thấp nhất trong năm tháng so với đồng USD do lợi suất trái phiếu Mỹ tăng, được giao dịch ở mức 157,82 JPY. Đồng tiền Nhật Bản yếu khiến tài sản được định giá bằng đồng yên trở nên dễ mua hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Giá hàng hóa thế giới:

Mặt hàng

ĐVT

31/12

So với phiên trước

So với 1 tuần trước

So với 1 tháng trước

So với 1 năm trước

CRB index

Điểm

356,81

0,01%

1,09%

4,64%

18,38%

LME index

Điểm

3905,60

-1,08%

-1,65%

-2,22%

3,81%

WTI

USD/thùng

71,720

1,03%

2,20%

5,32%

1,90%

Dầu Brent

USD/thùng

74,640

0,88%

1,39%

3,91%

-1,65%

Khí gas

USD/MMBtu

3,6330

-7,70%

3,68%

13,07%

52,26%

Xăng

USD/gallon

2,0140

0,08%

2,68%

5,03%

-4,73%

Dầu đốt

USD/gallon

2,3172

0,77%

4,20%

6,44%

-7,05%

Than

USD/tấn

125,25

0,56%

0,20%

-7,90%

-5,04%

Vàng

USD/ounce

2624,38

0,68%

0,35%

-0,67%

27,47%

Bạc

USD/ounce

28,879

-0,20%

-2,62%

-5,61%

22,14%

Đồng

USD/lb

3,9820

-1,57%

-1,95%

-2,29%

2,92%

Thép thanh vằn

CNY/tấn

3310,00

0,36%

1,85%

-0,90%

-16,18%

Quặng sắt TQ

CNY/tấn

779,00

0,00%

0,00%

-3,89%

-22,26%

Quặng sắt

USD/tấn

103,61

-0,16%

-0,45%

-1,62%

-24,02%

Thép cuộn cán nóng

USD/tấn

710,05

0,15%

0,01%

1,44%

-35,97%

Nhôm

USD/tấn

2556,50

0,10%

-0,18%

-1,94%

9,46%

Thiếc

USD/tấn

29083

-0,72%

0,92%

1,78%

15,48%

Kẽm

USD/tấn

2990,00

-1,03%

-1,64%

-3,08%

14,08%

Nickel

USD/tấn

15300

0,00%

-1,07%

-2,91%

-6,35%

Đậu tương

US cent/bushel

992,48

1,02%

0,48%

-6,02%

-23,54%

Lúa mì

US cent/bushel

575,45

0,87%

1,13%

-6,47%

-8,37%

Dầu cọ

Ringgit/tấn

4856,00

3,43%

7,13%

15,73%

30,50%

Sữa

USD/cwt

20,15

0,15%

-11,35%

-12,28%

25,16%

Cao su

JPY/kg

197,30

1,96%

1,49%

-7,41%

26,39%

Càphê

US cent/lb

320,82

0,10%

-2,65%

7,62%

68,72%

Bông

US cent/lb

68,39

0,03%

-0,68%

-3,68%

-14,45%

Đường

US cent/lb

19,29

0,00%

-1,19%

-8,62%

-7,70%

Cacao

USD/tấn

11545,73

0,37%

-2,53%

25,79%

170,08%

Chè

USD/kg

183,74

-7,75%

0,00%

-14,81%

15,39%

Ngô

US cent/bushel

458,7500

1,44%

2,29%

8,07%

-1,08%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)