menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 15/4: Giá vàng, nhôm, cao su tăng, dầu giảm

12:39 16/04/2024

Thị trường kim loại nóng lên với giá nhôm tăng lên mức cao nhất gần 2 năm, vàng cũng tiếp tục tăng. Trái lại, giá dầu giảm do nguồn cung dầu thô không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc xung đột ở Trung Đông.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm do cuộc phóng máy bay không người lái và tên lửa đạn đạo của Iran vào Israel cuối tuần qua gây thiệt hại ít hơn dự đoán, làm giảm bớt lo ngại về một cuộc xung đột gia tăng nhanh chóng có thể ảnh hưởng tới nguồn cung dầu thô.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 6/2024 giảm 35 cent, tương đương 0,4%, xuống 90,10 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 25 cent, tương đương 0,3%, xuống 85,41 USD/thùng,
Dầu đã giảm hơn 1 USD/thùng lúc đầu phiên trước khi hồi phục vào cuối phiên này. Trước đó, trong phiên thứ Sáu, giá dầu đạt mức cao nhất 10 năm do dự đoán Iran sẽ trả đũa Israel.
Iran sản xuất hơn 3 triệu thùng dầu thô mỗi ngày với tư cách là nhà sản xuất chính trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Cho đến nay, căng thẳng gia tăng giữa Iran và Israel có tác động rất ít đến nguồn cung dầu.
Dữ liệu doanh số bán lẻ mạnh mẽ của Mỹ, cùng khả năng duy trì lãi trong thời gian dài hơn, gây giảm nhu cầu về dầu.
Dữ liệu doanh số bán lẻ của Mỹ mạnh mẽ cũng cản trở giá dầu bằng, vì có thể sẽ khiến Mỹ duy trì lãi suất cao trong thời gian dài hơn, từ đó tác động làm giảm nhu cầu.
Một yếu tố nữa cũng tác động giảm giá dầu. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết sản lượng từ các khu vực sản xuất đá phiến chính của nước này sẽ tăng hơn 16.000 thùng/ngày lên 9,86 triệu thùng/ngày, là mức cao nhất 5 tháng.

Kim loại quý: Giá vàng tăng cao do nhu cầu mua trú ẩn an toàn, được thúc đẩy bởi gia tăng căng thẳng Trung Đông, bất chấp USD và lợi suất trái phiếu kho bạc tăng sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán lẻ của Mỹ trong tháng 3 tăng cao hơn dự kiến, làm dấy lên lo ngại rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể trì hoãn việc cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 2.365,09 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.431,29 USD vào thứ Sáu tuần trước. Vàng kỳ hạn tháng 6 tăng 0,4% lên 2.383 USD.
Giá bạc giao ngay kết thúc phiên này tăng 3% lên 28,72 USD sau khi đạt mức cao nhất gần 3 năm trong phiên trước đó. Các nhà phân tích của Heraeus cho biết: “Cả nhu cầu công nghiệp – chủ yếu từ sản xuất pin mặt trời – và hoạt động đầu tư của tổ chức dường như đều hỗ trợ bạc”.
Bạch kim giảm 0,6% xuống 968,00 USD và palladium giảm 2% xuống 1.028,34 USD.
Bart Melek, người phụ trách chiến lược hàng hóa tại TD Securities, cho biết: “Sự biến động giá này rất giống một động thái mang tính địa chính trị, có thể liên quan đến tuyên bố từ lực lượng quốc phòng Israel rằng điều gì đó sắp thành hiện thực”.
Đồng USD tăng 0,2% và lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm đạt mức cao nhất trong 5 tháng sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán lẻ của Mỹ tăng nhiều hơn dự kiến trong tháng 3, thêm bằng chứng cho thấy nền kinh tế đã kết thúc quý đầu tiên một cách vững chắc. Thị trường hiện dự đoán Fed sẽ cắt giảm lãi suất dưới 2 lần, giảm tổng cộng 25 điểm cơ bản vào cuối năm nay (trước đây dự đoán là 3 lần).
Tuy nhiên, Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết: “Trong thời gian tới, giá vàng có thể giảm xuống còn 2.200 USD/ounce khi nguyên nhân địa chính trị bị xóa bỏ”.
Việc mua của ngân hàng trung ương cũng đã hỗ trợ cho vàng thỏi. Các nhà phân tích tại Heraeus cho biết: “Không có khả năng xảy ra sự đảo chiều bán buôn sang bán ròng trong thời gian tới bất chấp giá vàng kỷ lục, vì việc mua của ngân hàng trung ương có xu hướng mang tính chiến lược và không nhạy cảm với giá cả”.
Kim loại công nghiệp: Giá nhôm tăng mạnh lên mức cao nhất 22 tháng, trong khi nicken lên mức cao nhất 7 tháng sau khi Mỹ và Anh yêu cầu các Sàn giao dịch kim loại London và CME không được chấp nhận sản phẩm nhôm và nickel của Nga.
Kết thúc phiên, trên Sàn LME, giá nhôm tăng 2,9% lên 2.565 USD/tấn sau khi có lúc đạt 2.728 USD; nickel tăng 2,1% lên 18.175 USD, gần sát mức cao kỷ lục đạt được trong phiên là 19.355 USD. Thị trường những kim loại này dự kiến sẽ tiếp tục giao dịch không ổn định vì chưa đánh giá được tác động tiềm ẩn từ những hạn chế giao dịch nói trên.
Trong khi đó, giá đồng tăng 1,7% lên 9.621 USD/tấn, kẽm giảm 1,5% xuống 2.786 USD, chì giảm 0,3% xuống 2.182 USD và thiếc tăng 2,1% lên 32.200 USD.
Sàn LME hôm thứ Bảy đã cấm sử dụng nhôm, nicken và đồng của Nga được sản xuất kể từ ngày 13/4 để tuân thủ các hạn chế mới được áp đặt liên quan đến cuộc xung đột Nga - Ukraine.
Nhà phân tích Tom Price của Liberum cho biết: “Kim loại chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi chính sách này là nhôm. Tôi không nghĩ có ai thực sự gặp khó khăn với đồng và niken”.
“Một lượng lớn nhôm trong các kho LME là của Nga và hợp đồng LME phụ thuộc rất nhiều vào dòng chảy của Nga… Giá nhôm gần đây đã tăng lên.”
Giá nhôm trên sàn LME đã tăng gần 9% trong tháng 4/2024, một phần do lo ngại về nguồn cung.
Nhôm của Nga chiếm 91% trong tổng lượng tồn trữ nhôm hàng thực ở các kho của sàn LME trong tháng 3/2024; trong khi đồng của Nga chiếm 62% trong trữ lượng đồng và nickel chiếm 36% trong các kho nickel. Vắng nguồn cung của Nga, các khách hàng sẽ chuyển hướng tới nguồn cung từ Trung Quốc và các quốc gia khác bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ.
Nguồn cung nicken từ nhà sản xuất hàng đầu thế giới, Indonesia, ngày càng tăng dự kiến sẽ hạn chế bất kỳ mức tăng giá nicken nào trong khi nhiều người tiêu dùng đồng đã tìm thấy các giải pháp thay thế cho nguồn cung của Nga.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong nhiều tuần do nguồn cung giảm và kỳ vọng Trung Quốc sẽ tung ra nhiều biện pháp kích thích hơn nữa để hỗ trợ nền kinh tế.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 2,18% lên 845,5 nhân dân tệ (116,80 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 26/3. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,31% lên 112,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 11/3/2024.
Quặng sắt Đại Liên tăng phiên giao dịch thứ sáu liên tiếp, trong khi hợp đồng Singapore tăng phiên thứ ba liên tiếp.
Trong khi đó, giá thép giảm 0,99%, thép không gỉ tăng 1,2% và cuộn dây cán nóng tăng 0,32%.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy xuất khẩu quặng sắt từ các nhà cung cấp hàng đầu thế giới - Australia và Brazil - trong tuần 8 -14/4 đã giảm 28,8% so với tuần trước đó xuống 19,19 triệu tấn.
Nền kinh tế Trung Quốc ước tính tăng trưởng chậm lại trong quý đầu tiên do suy thoái bất động sản kéo dài và niềm tin của khu vực tư nhân suy yếu gây áp lực lên nhu cầu, duy trì áp lực buộc các nhà hoạch định chính sách phải đưa ra nhiều biện pháp kích thích hơn.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của các ngân hàng mới ở Trung Quốc trong tháng 3 đã tăng ít hơn dự kiến so với tháng trước, trong khi tăng trưởng tín dụng nói chung vẫn thấp kỷ lục và khủng hoảng tài sản vẫn kéo dài.
Nhà phát triển bất động sản Trung Quốc Vanke cho biết họ đang phải đối mặt với áp lực thanh khoản ngắn hạn và khó khăn trong hoạt động, nhưng đã chuẩn bị “một loạt kế hoạch” để ổn định hoạt động kinh doanh và cắt giảm nợ.
Các nhà phân tích tại First Futures cho biết: “Với lượng tồn kho thép cao còn lại, việc tăng thêm sản lượng kim loại nóng có thể không có lợi cho việc giá phục hồi bền vững”.
Nông sản: Giá ngô, đậu tương và lúa mì Mỹ đồng loạt giảm do nguồn cung ngũ cốc dồi dào, nhu cầu xuất khẩu chậm lại và giá dầu thô kỳ hạn giảm.
Trên sàn giao dịch Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 5 kết thúc phiên giảm 15-3/4 cent xuống 11,58-1/4 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 5 giảm 4 cent xuống 4,31-1/2 USD/bushel và lúa mì kỳ hạn tháng 5 giảm 4-1/2 cent xuống 5,51-3/4 USD/bushel.
USDA cho biết tiến độ trồng ngô Mỹ đến nay là 6%, cao hơn mức trung bình 5 năm là 5% nhưng thấp hơn mức trung bình kỳ vọng thương mại là 7%. Trong ước tính đầu tiên về tiến độ trồng đậu tương của Mỹ vào năm 2024, USDA cho biết gieo hạt có dầu là 3%, cao hơn mức trung bình 5 năm là 1%.
Xuất khẩu ngũ cốc của Nga và Ukraine tiếp tục thoát khỏi các cuộc tấn công lớn. Reuters được biết Nga và Ukraine đã đạt được thỏa thuận vào tháng 3 để đảm bảo an toàn vận chuyển ở Biển Đen. Tuy nhiên, thỏa thuận này đã bị hủy bỏ khi Ukraine rút lui trước khi nó được công bố.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 2,1% xuống 20,02 cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 2,2% xuống 615,20 USD/tấn.
Các đại lý cho biết Ấn Độ đã loại trừ việc cho phép xuất khẩu trong mùa giải 2023/24 kết thúc vào tháng 10. Tuy nhiên, dự báo Ấn Độ sẽ nhận được lượng mưa trên mức trung bình, sẽ giúp cải thiện cây trồng trong vụ mùa năm nay.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 tăng 2,5% lên 3.949 USD/tấn sau khi đạt 3.975 USD, mức cao nhất kể từ khi hợp đồng hiện tại bắt đầu giao dịch vào năm 2008. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 tăng 2,9% lên 2,2685 USD/lb, sau khi chạm mức cao nhất hơn 18 tháng là 2,3055 USD.
Các đại lý cho biết nguồn cung ở Việt Nam tiếp tục khan hiếm và lo ngại về triển vọng vụ mùa ở nhà sản xuất robusta hàng đầu thế giới vẫn là những yếu tố hỗ trợ chính.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản giảm phiên thứ tư liên tiếp xuống mức thấp 1 tháng trong bối cảnh giá dầu giảm và hoạt động khai thác tại các khu vực sản xuất cao su được khởi động lại.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn Osaka giảm 2,1 yên, tương đương 0,67%, xuống 313,6 yên (2,04 USD)/kg, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 11/3. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) tăng 5 nhân dân tệ, tương đương 0,03%, kết thúc ở mức 14.710 nhân dân tệ (2.032,16 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 5 của Sở giao dịch Singapore chốt phiên ở mức 163,2 US cent/kg, tăng 0,37%.
Cơ quan khí tượng Trung Quốc cho biết Vân Nam, khu vực sản xuất cao su trọng điểm của nước này, sẽ có lượng mưa khá trong tuần này sau đợt khô hạn kéo dài.
Việc Vân Nam và Hải Nam bắt đầu khai thác cao su trở lại ở đã góp phần làm giảm giá mủ cao su thô ở Thái Lan, gây ra tâm lý tiêu cực trên thị trường, công ty tư vấn Longzhong có trụ sở tại Trung Quốc cho biết trong một báo cáo hôm thứ Hai, đồng thời thêm rằng việc thiếu đơn đặt hàng mới cũng góp phần làm giảm giá. Dự trữ cao su trong các kho được theo dõi bởi SHFE đã giảm 0,2% so với ngày 3/4.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

86,02

+0,61

+0,71%

Dầu Brent

USD/thùng

90,67

+0,57

+0,63%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

279,88

+1,49

+0,54%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,69

0,00

-0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

267,06

+1,64

+0,62%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.397,70

+14,70

+0,62%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.382,76

-0,58

-0,02%

Bạc (Comex)

USD/ounce

28,84

+0,12

+0,41%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

970,17

-3,65

-0,37%

Đồng (Comex)

US cent/lb

435,55

-2,35

-0,54%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.576,00

+118,50

+1,25%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.555,00

+61,00

+2,45%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.774,50

-54,00

-1,91%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.230,00

-123,00

-0,38%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

445,25

+1,00

+0,23%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

571,50

+4,00

+0,70%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

357,50

-0,25

-0,07%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

18,33

0,00

0,00%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.175,75

+3,75

+0,32%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

340,70

+1,10

+0,32%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

45,95

-0,06

-0,13%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

635,10

+3,70

+0,59%

Cacao (ICE)

USD/tấn

10.559,00

+84,00

+0,80%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

226,85

+6,40

+2,90%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,82

-0,31

-1,54%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

374,05

+4,55

+1,23%

Bông (ICE)

US cent/lb

85,56

+0,41

+0,48%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

163,70

-1,90

-1,15%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)