menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 16/10: Giá vàng tăng, dầu giảm, cà phê biến động trái chiều

11:21 17/10/2024

Phiên thứ Tư (16/10), giá các nguyên liệu biến động không đồng nhất.
 
Năng lượng: Giá dầu kết thúc phiên vừa qua ở gần mức thấp nhất hai tuần sau khi giảm khoảng 7% trong 3 phiên trước đó do dự báo nhu cầu dầu dầu tăng chậm và giảm bớt lo ngại về vấn đề nguồn cung liên quan đến xung đột ở Trung Đông.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 0,03 USD xuống 74,22 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 0,19 USD, hay 0,3%, xuống 70,39 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều đóng cửa ở mức thấp nhất kể từ ngày 2 tháng 10 trong ngày thứ hai liên tiếp.
Đầu tuần này, giá dầu thô đã giảm do triển vọng nhu cầu yếu hơn và báo cáo của phương tiện truyền thông rằng Israel sẽ không tấn công các địa điểm hạt nhân và dầu mỏ của Iran, làm giảm bớt lo ngại về tình trạng gián đoạn nguồn cung.
Iran là thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và sản xuất khoảng 4,0 triệu thùng dầu mỗi ngày (bpd) vào năm 2023, theo dữ liệu của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA).
Theo các nhà phân tích và báo cáo của chính phủ Mỹ, Iran đang trên đà xuất khẩu khoảng 1,5 triệu thùng/ngày vào năm 2024, tăng so với mức ước tính 1,4 triệu thùng/ngày của năm 2023.
Iran đang hậu thuẫn một số nhóm chiến đấu với Israel, bao gồm Hezbollah ở Lebanon, Hamas ở Gaza và Houthis ở Yemen.
Thị trường vẫn lo ngại cuộc xung đột giữa Israel và nhóm chiến binh Hezbollah leo thang. Các biện pháp hạn chế nguồn cung của OPEC và các đồng minh bao gồm Nga, một nhóm được gọi là OPEC+, vẫn có hiệu lực cho đến tháng 12 khi một số thành viên dự kiến bắt đầu gỡ bỏ một phần kế hoạch cắt giảm.
Về phía cầu, OPEC và Cơ quan Năng lượng Quốc tế tuần này đã cắt giảm dự báo tăng trưởng mức giảm. IEA dự báo nhu cầu dầu toàn cầu sẽ đạt đỉnh là gần 102 triệu thùng/ngày trước năm 2030 và sau đó giảm xuống còn 99 triệu thùng/ngày vào năm 2035.
Các biện pháp kích thích tài khóa của Trung Quốc đã không hỗ trợ nhiều cho giá dầu. Trung Quốc có thể huy động thêm 6 nghìn tỷ nhân dân tệ (850 tỷ đô la) từ trái phiếu kho bạc đặc biệt trong vòng 3 năm tới để kích thích nền kinh tế đang suy thoái, truyền thông nước này đưa tin.
Tin tức tích cực từ các nền kinh tế Mỹ và Châu Âu đã giúp hạn chế đà giảm giá dầu trong phiên vừa qua.
Tại Châu Âu, nền kinh tế khu vực đồng euro – đã tránh được cuộc suy thoái - cho thấy một số dấu hiệu phục hồi với một loạt các chỉ số cho thấy tăng trưởng yếu nhưng vẫn tích cực.
Giá nhập khẩu của Mỹ giảm mạnh nhất trong chín tháng vào tháng 9 khi chi phí sản phẩm năng lượng giảm mạnh, báo hiệu triển vọng lạm phát lành mạnh giúp Cục Dự trữ Liên bang tiếp tục cắt giảm lãi suất.
Sau khi tăng lãi suất mạnh mẽ vào năm 2022 và 2023 để kiềm chế lạm phát tăng vọt, Fed đã bắt đầu hạ lãi suất vào tháng 9. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí đi vay, từ đó có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu dầu mỏ.
Dữ liệu lưu trữ dầu hàng tuần của Mỹ sẽ được Viện Dầu khí Mỹ (API) công bố vào cuối thứ Tư và EIA vào thứ Năm. Các nhà phân tích ước tính các công ty năng lượng Mỹ đã thêm khoảng 1,8 triệu thùng dầu thô vào kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 11 tháng 10. Nếu đúng, đây sẽ là lần đầu tiên các công ty năng lượng tăng dự trữ trong ba tuần liên tiếp kể từ tháng 4 và so sánh với mức rút 4,5 triệu thùng trong cùng tuần năm ngoái và mức tăng trung bình 1,1 triệu thùng trong năm năm qua (2019-2023).
Kim loại quý: Giá vàng gần sát mức lục cao do lợi suất trái phiếu Mỹ giảm và dự kiến các ngân hàng trung ương lớn sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất. Các cuộc xung đột địa chính trị tiếp tục diễn ra cũng hỗ trợ giá vàng.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 2.673,24 USD/ounce, gần sát mức cao kỷ lục 2.685,42 USD đạt được vào ngày 26 tháng 9; vàng giao sau tăng 0,5% lên 2.691,3 USD/ounce.

"Kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 11 đang được củng cố giá vàng. Dữ liệu lạm phát yếu đi ở Châu Âu và Vương quốc Anh cũng làm tăng kỳ vọng về việc ECB và BoE sẽ nới lỏng mạnh mẽ hơn nữa chính sách tiền tệ, dẫn đến lợi suất nói chung giảm, từ đó thúc đẩy giá vàng", Peter A. Grant, phó chủ tịch kiêm chiến lược gia kim loại cấp cao tại Zaner Metals cho biết.

"Thậm chí vàng có cơ hội tăng giá lên gần 3.000 USD, có thể đạt được vào quý 1 năm 2025", Grant cho biết.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một tuần, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn vì vàng có xu hướng phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp.
Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch hiện thấy khoảng 94% khả năng lãi suất của Mỹ sẽ giảm 25 điểm cơ bản vào tháng 11.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu có vẻ sẽ cắt giảm lãi suất thêm một lần nữa vào thứ Năm, trong khi lạm phát của Anh giảm cho thấy Ngân hàng Anh sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng tới.
Ole Hansen, giám đốc chiến lược hàng hóa tại Saxo Bank, cho biết các động lực tăng giá chính đối với vàng bao gồm rủi ro bất ổn tài chính, sức hấp dẫn của nơi trú ẩn an toàn, căng thẳng địa chính trị, phi đô la hóa, bất ổn bầu cử Tổng thống Mỹ và việc cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương.
Các đại biểu tham dự cuộc họp thường niên của Hiệp hội thị trường vàng thỏi London dự đoán giá vàng sẽ tăng lên 2.941 USDa trong 12 tháng tới và giá bạc sẽ tăng vọt lên 45 USD/ounce.
Bạc giao ngay tăng khoảng 0,6% lên 31,67 USD, bạch kim tăng 1% lên 994,43 USD và palladium tăng 1,5% lên 1.024,76 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng phục hồi trong bối cảnh hy vọng Trung Quốc sẽ đưa ra thêm các chương trình hỗ trợ cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 0,4% lên 9.566,5 USD/tấn sau khi trạm mức thấp nhất 3 tuần vào phiên trước đó. Giá đồng Mỹ trên sàn Comex tăng 0,4% lên 4,32 USD/lb.
Hợp đồng đồng kỳ hạn tháng 11 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm 0,2% xuống còn 76.720 nhân dân tệ (10.778,01 USD)/tấn.
Trong số các kim loại khác, giá niken giảm 0,7% xuống còn 17.305 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất trong hơn hai tuần là 17.250 USD, nhôm trên sàn LME tăng 0,7% lên 2.588 USD/tấn, kẽm không đổi ở mức 3.053,50 USD/tấn, chì tăng 0,3% lên 2.084,50 USD/tấn và thiếc giảm 0,9% xuống 32.095 USD/tấn.
Cuối tháng 9, giá kim loại tăng vọt sau khi Trung Quốc cam kết các biện pháp kích thích mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế, nhưng sau đó đã giảm do các thông báo tiếp theo thiếu thông tin chi tiết và khiến các nhà đầu tư thất vọng.
Thông tin chi tiết hơn về các biện pháp kích thích của Trung Quốc có thể được tiết lộ tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc của nước này vào cuối tháng 10.
Giá quặng sắt giảm do triển vọng nguồn cung toàn cầu tăng trong khi nhu cầu của Trung Quốc giảm làm át đi tác động tiêu cực từ số liệu thương mại tốt lên ở Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc kết thúc phiên giảm 1,88% xuống 782,5 CNY (109,92 USD)/tấn. Tại Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 11 giảm 1,09% xuống 104,8 USD/tấn.
Hầu hết các sản phẩm thép đều giảm giá. Tại Thượng Hải, thép thanh giảm 1,15%, thép cuộn cán nóng giảm 0,97% và dây thép cuộn giảm 0,24%, trong khi thép không gỉ tăng 0,36%.
Công ty khai khoáng Vale của Brazil đã tăng 5,5% sản lượng quặng sắt quý 3 so với cùng kỳ năm trước, đạt mức cao nhất trong gần 6 năm. Vale là một trong những nhà cung cấp quặng sắt hàng đầu thế giới.
Trong khi đó, nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 9 tăng 2,7% so với tháng 8 và tăng 2,9% so với cùng tháng năm trước, do giá thấp và hy vọng nhu cầu cải thiện trong mùa xây dựng cao điểm. Xuất khẩu thép tăng 25,93% lên 10,15 triệu tấn, cao nhất trong một tháng kể từ tháng 7/2016. Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc cho biết, sự gia tăng xuất khẩu chủ yếu là do lợi nhuận ở thị trường xuất khẩu cao hơn so với thị trường trong nước.
Hôm thứ Ba, Bắc Kinh tuyên bố sẽ tổ chức một cuộc họp báo vào thứ Năm để thảo luận về việc thúc đẩy sự phát triển "ổn định và lành mạnh" của lĩnh vực bất động sản, khơi dậy hy vọng về việc nới lỏng chính sách hơn nữa để hỗ trợ sự phục hồi kinh tế rộng rãi.
Nông sản: Giá ngô Mỹ tăng sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ báo cáo lượng xuất khẩu mặt hàng này tăng mạnh. Giá lúa mì cũng mạnh do khô hạn gia tăng ở Argentina và xuất khẩu lúa mì của Ukraine tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, giá đậu tương giảm do thời tiết thuận lợi tại khu vực trồng cả ở Nam Mỹ và Mỹ.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 3-1/2 US cent lên 4,04-3/4 USD/bushel; lúa mì mềm đỏ vụ đông đóng cửa tăng 5-1/2 US cent lên 5,85 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 11 US cent xuống 9,8 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 đóng cửa giảm 0,82 US cent, hay 3,6%, xuống 22,00 US cent/lb, giảm hướng tới mức thấp của tuần trước; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 2,4% xuống 563,60 USD/tấn.
Đồng tiền Brazil giảm giá góp phần làm giảm giá đường, đồng thời khuyến khích các nhà xuất khẩu ở Brazil xuất khẩu đường bởi lợi nhuận theo giá nội tệ tăng. Mưa tại Brazil cũng thúc đẩy triển vọng vụ mía 2025/26.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 1,3 US cent hay 0,5% lên 2,58 USD/lb do các đại lý kỳ vọng những cơn mưa gần đây có thể cải thiện triển vọng cho mùa vụ năm 2025 ở Brazil. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 1% xuống 4.859 USD/tấn mặc dù giá vẫn được hỗ trợ bởi dự đoán sản lượng cà phê ở Việt Nam sụt giảm trong niên vụ này.
Việc tắc nghẽn ở các cảng Brazil đã ảnh hưởng tới hơn 2 triệu bao cà phê (60kg/bao) xuất khẩu trong 9 tháng năm 2024.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm bởi lo ngại về tăng trưởng kinh tế đang chậm lại tại Trung Quốc, nước tiêu thụ cao su hàng đầu thế giới, mặc dù đồng JPY yếu đã hỗ trợ một phần.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 7,6 JPY hay 1,93% xuống 385,5 JPY (2,58 USD)/kg. Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 1/2025 giảm 515 CNY hay 2,82% xuống 17.760 CNY (2.494,94 USD)/tấn. Hợp đồng này đã giảm hơn 3% trước đó trong phiên này. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch SICOM của Singapore giảm 3,2% xuống 195,6 US cent/kg.
Lo ngại kéo dài về sự phục hồi kinh tế yếu ở Trung Quốc và sự thất vọng xung quanh các thông báo về kích thích tài chính của Bắc Kinh đang khiến tâm lý nhà đàu tư yếu đi. Những lo ngại này đang chiếm ưu thế trên thị trường cao su thiên nhiên mặc dù nguồn cung vẫn yếu.
Nền kinh tế Trung Quốc có khả năng tăng trưởng 4,8% vào năm 2024, thấp hơn mục tiêu của chính phủ và tăng trưởng có thể tiếp tục chậm lại còn 4,5% vào năm 2025. 

Cập nhật giá hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,94

+0,55

+0,78%

Dầu Brent

USD/thùng

74,75

+0,53

+0,71%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

205,81

+1,78

+0,87%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,38

+0,01

+0,34%

Dầu đốt

US cent/gallon

218,73

+1,26

+0,58%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.698,30

+7,00

+0,26%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.684,45

+10,62

+0,40%

Bạc (Comex)

USD/ounce

32,05

+0,07

+0,22%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

1.008,21

+9,90

+0,99%

Đồng (Comex)

US cent/lb

439,00

+2,25

+0,52%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.558,50

+28,00

+0,29%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.584,00

+13,50

+0,53%

Kẽm (LME)

USD/tấn

3.052,50

-0,50

-0,02%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.150,00

-246,00

-0,76%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

405,00

+0,25

+0,06%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

587,75

+2,75

+0,47%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

380,25

+1,25

+0,33%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,07

+0,03

+0,20%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

982,50

+2,50

+0,26%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

315,60

+1,90

+0,61%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

41,97

+0,29

+0,70%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

612,40

+1,80

+0,29%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.765,00

-177,00

-2,23%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

258,00

+1,30

+0,51%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,00

-0,82

-3,59%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

501,40

+4,85

+0,98%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,34

+0,08

+0,11%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

198,90

+2,10

+1,07%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)