menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 18/11: Giá tăng do USD giảm

11:00 19/11/2024

Phiên thứ Hai (18/11), giá dầu, vàng và nhiều mặt hàng khác tăng trong bối cảnh USD giảm và xung đột Nga – Ukraine gia tăng căng thẳng.
 
Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 3% vào thứ Hai do sự cố mất điện tại Sverdrup và xung đột ở Ukraine nóng lên.
Giá dầu tăng hơn 2 USD/thùng sau khi có tin hoạt động khai thác dầu thô tại mỏ dầu Johan Sverdrup của Na Uy đã bị dừng lại, sau khi đã tăng trong mấy phiên gần đây do cuộc xung đột ở Ukraine gia tăng căng thẳng.
Giá dầu thô Brent kết thúc phiên ở mức 73,30 USD/thùng, tăng 2,26 USD, tương đương 3,2%; dầu thô WTI tăng 2,14 USD, tương đương 3,2% lên 69,16 USD/thùng.
Equinor EQNR.OLcho biết họ đã dừng sản xuất từ mỏ dầu Johan Sverdrup, mỏ dầu lớn nhất Tây Âu, do sự cố mất điện. Người phát ngôn của Equinor cho biết công việc khởi động lại sản xuất đang được tiến hành, nhưng không rõ khi nào sẽ tiếp tục.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết giá dầu tiếp tục tăng sau tin tức về sự cố mất điện, cho thấy thị trường dầu thô Biển Bắc có thể sẽ bị thắt chặt. Nguồn cung dầu thô physical (hàng thực) từ Biển Bắc là nền tảng cho hợp đồng Brent kỳ hạn tương lai.
Mỏ dầu lớn nhất của Kazakhstan là Tengiz, do Chevron của Mỹ điều hành, đã giảm sản lượng dầu 28%-30% do đang trong quá trình sửa chữa, góp phần làm cho nguồn cung toàn cầu thắt chặt hơn nữa. Bộ năng lượng của nước này cho biết việc sửa chữa dự kiến sẽ hoàn tất vào thứ Bảy.
Giá cũng tăng do cuộc chiến tranh ở Ukraine gia tăng căng thẳng vào cuối tuần. Cho đến nay, xuất khẩu dầu của Nga vẫn chưa bị ảnh hưởng nhiều, tuy nhiên, giá dầu có thể tăng cao hơn nữa nếu Ukraine nhắm mục tiêu vào nhiều cơ sở hạ tầng dầu mỏ hơn.
Giá dầu Brent và WTI đã giảm hơn 3% vào tuần trước do dữ liệu kinh tế ở Trung Quốc yếu, tỷ lệ sử dụng công suất của các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc thấp và sau khi Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo rằng nguồn cung dầu toàn cầu trung bình ngày sẽ vượt hơn 1 triệu thùng so với nhu cầu trong năm 2025, ngay cả khi OPEC+ vẫn tiếp tục cắt giảm sản lượng.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh do đồng USD yếu đi và căng thẳng giữa Nga và Ukraine gia tăng. Trước đó, giá vàng đã giảm 6 phiên liên tiếp do chiến thắng của ông Trump được coi là động lực có thể thúc đẩy lạm phát, buộc Fed phải giảm tốc độ hạ lãi suất, từ đó đẩy chỉ số USD tăng lên mức cao nhất một năm, gây áp lực giảm giá vàng.
Tuy nhiên, đồng bạc xanh đã giảm 0,4% vào thứ Hai, sau khi tăng 1,6% vào tuần trước. Đồng USD yếu đi khiến vàng trở nên dễ mua hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Vàng giao ngay tăng 1,8% lên 2.608,19 USD/ounce, rời khỏi mức thấp nhất hai tháng chạm tới hôm thứ Năm; vàng kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1,7% lên 2.614,60 USD. Đồng USD giảm và gia tăng bất ổn liên quan đến xung đột Nga-Ukraine khơi dậy nhu cầu trú ẩn an toàn.
Giá bạc giao ngay tăng 2,8% lên 31,05 USD/ounce, bạch kim tăng 2,8% lên 964,87 USD và palladium tăng 5,3% lên 1.001,29 USD.

Vàng, vốn được coi là khoản đầu tư an toàn trong bối cảnh kinh tế và địa chính trị bất ổn, đã ghi nhận mức giảm hàng tuần mạnh nhất trong hơn ba năm vào tuần trước khi mức thuế mà Tổng thống đắc cử Trump đề xuất được coi là động lực tiềm tàng của lạm phát, có thể khiến Fed phải giảm tốc độ cắt giảm lãi suất.

"Cho dù Cục Dự trữ Liên bang có cắt giảm hay không, tôi nghĩ về mặt kỹ thuật, vàng có vẻ như muốn quay lại mức gần 2.700 USD", Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao thuộc RJO Futures cho biết.
Thị trường kỳ vọng Ngân hàng trung ương Mỹ sẽ thực hiện đợt cắt giảm lãi suất thứ ba vào tháng 12, mặc dù dữ liệu gần đây cho thấy tiến độ đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2% đã bị đình trệ. Trong tuần này dự kiến sẽ có ít nhất bảy quan chức Fed phát biểu về vấn đề này. Lãi suất tăng khiến các tài sản không sinh lời như vàng trở nên kém hấp dẫn hơn, có thể gây thêm áp lực lên kim loại này.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng phục hồi khi đồng USD yếu đi, nhưng đà tăng bị hạn chế do sự không chắc chắn về thuế quan mà Mỹ có thể áp dụng dưới thời Tổng thống Trump và các biện pháp kích thích của Trung Quốc.
Trong khi đó, giá nhôm giảm khi thị trường tiếp nhận tin tức về việc Trung Quốc hủy bỏ các khoản hoàn thuế xuất khẩu.
Giá đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,8% lên 9.070 USD/tấn, giảm 11% từ mức cao nhất trong bốn tháng vào ngày 30 tháng 9. Trên sàn Comex của Mỹ, giá đồng tăng 1,5% lên 4,12 USD/lb.
"Phản ứng ban đầu sau cuộc bầu cử hiện đã giảm bớt. Đồng USD đã ngừng tăng giá và điều đó đang mang lại sự ổn định trở lại cho thị trường", Ole Hansen, giám đốc chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen cho biết.
"Thị trường đang hướng đến tháng 1 (thời điểm ông Trump tiếp quản chức Tổng thống) và cố gắng đánh giá tác động của thuế quan và chiến tranh thương mại đối với nhu cầu kim loại. Vì vậy, hiện tại, điều đó sẽ khiến thị trường giao dịch rất thận trọng".
Chỉ số USD đầu tuần này đã giảm sau khi khi tăng vọt sau cuộc bầu cử Mỹ và chạm mức cao kỷ lục một năm vào cuối tuần trước. Đồng USD giảm khiến hàng hóa được định giá bằng USD trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Nhôm là kim loại duy nhất giảm giá trên sàn LME, theo đó giá giảm 1,4% xuống còn 2.613 USD/tấn sau khi tăng 5,3% vào thứ Sáu sau thông báo của Trung Quốc rằng họ sẽ hủy bỏ khoản hoàn thuế 13% đối với xuất khẩu các sản phẩm nhôm.
Giá chì phiên này tăng 1,6% lên 1.989 USD/tấn, mặc dù lượng hàng tồn kho trên sàn LME tăng 49.500 tấn (27%) lên 234.725. Giá kẽm tăng 0,1% lên 2.951 USD/tấn, niken tăng 1,1% lên 15.710 USD và thiếc tăng 0,8% lên 28.965 USD.
Giá quặng sắt tăng chạm mức 100 USD/tấn do nhu cầu trong ngắn hạn vững chắc và kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế hơn nữa từ Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 12 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 2,78% lên 99,4 USD/tấn, sau khi chạm 100,3 USD/tấn vào đầu phiên giao dịch. Tuần trước, giá đã giảm hơn 5%.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 1,87% lên 761 nhân dân tệ (105,08 USD) một tấn.
Giá các sản phẩm thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải cũng tăng. Thép cây tăng 0,06%, thép cuộn cán nóng tăng 0,38%, thép thanh tăng 0,53% và thép không gỉ tăng 0,15%.
Các nhà phân tích cho biết nhu cầu trong ngắn hạn đối với thành phần chính của quá trình sản xuất thép vẫn mạnh, hỗ trợ giá.
Sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà sản xuất thép Trung Quốc tính đến ngày 15/11 đã tăng 0,8% so với tuần trước lên 2,36 triệu tấn, mức cao nhất kể từ đầu tháng 8, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ tăng sau khi Nhà Trắng dỡ bỏ các hạn chế trước đây đã ngăn Ukraine sử dụng tên lửa của Mỹ, làm dấy lên lo ngại về một cuộc chiến tranh leo thang ở khu vực vựa lúa mì Biển Đen. Giá đậu tương tăng do doanh số xuất khẩu cao trong khi ngô tăng giá theo giá của lúa mì.
Giá lúa mì trên sàn Chicago tăng 13-1/4 cent lên 5,49-3/4 USD/bushel; giá ngô tăng 4-1/4 cent lên 4,28-1/4 USD/bushel, trong khi đậu tương tăng 4-3/4 cent lên 10,03-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,62 cent, hay 2,9%, lên 22,20 cent/lb, sau sáu tuần liên tiếp giảm. Đường trắng tăng 18,50 USD, hay 3,3%, lên 573,50 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giảm sau khi đạt mức cao mới trong 13 năm do lo ngại về nguồn cung ở Trung và Nam Mỹ và sự không chắc chắn về các quy định.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 kết thúc phiên giảm 1,1 cent, tương đương 0,4%, xuống 2,822 USD/lb. Đầu phiên, hợp đồng này đã đạt mức cao nhất kể từ tháng 5/2011 ở mức 2,9150 USD. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1 giảm 38 USD, tương đương 0,8%, xuống còn 4.735 USD/tấn.
Vụ mùa ở quốc gia sản xuất arabica hàng đầu thế giới, Brazil, niên vụ này dự báo sẽ giảm.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản giảm vào thứ Hai theo xu hướng giá ở Thượng Hải trong bối cảnh lo ngại về tăng trưởng kinh tế chậm chạp tại quốc gia nhập khẩu hàng đầu thế giới - Trung Quốc, mặc dù đồng yên yếu và giá dầu tăng đã hạn chế giá cao su giảm.
Hợp đồng cao su giao tháng 4 của Sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa giảm 2 yên, hay 0,57%, xuống 348 yên (2,25 USD)/kg.
Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đóng cửa giảm 225 nhân dân tệ xuống còn 17.410 nhân dân tệ (2.404 USD)/tấn.
Hợp đồng cao su giao tháng 12 trên sàn giao dịch Singapore giảm 1,8% xuống 183,4 cent Mỹ/kg.
Hợp đồng cao su butadien giao tháng 1 trên Sàn giao dịch SHFE giảm 125 nhân dân tệ xuống còn 13.120 nhân dân tệ (1.811 USD)/tấn.
rung Quốc đã trải qua tình trạng tăng trưởng kinh tế chậm lại và chính phủ đã đưa ra các chính sách hỗ trợ để kích thích tăng trưởng.
Cập nhật giá hàng hóa:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

68,93

-0,23

-0,33%

Dầu Brent

USD/thùng

73,30

+2,26

+3,18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

201,63

-0,20

-0,10%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,95

-0,02

-0,77%

Dầu đốt

US cent/gallon

224,71

-0,43

-0,19%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.616,00

+1,40

+0,05%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.611,75

-0,08

0,00%

Bạc (Comex)

USD/ounce

31,24

+0,02

+0,05%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

968,90

+0,98

+0,10%

Đồng (Comex)

US cent/lb

417,35

+0,80

+0,19%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.072,50

+70,00

+0,78%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.607,50

-42,00

-1,59%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.951,50

+4,00

+0,14%

Thiếc (LME)

USD/tấn

29.023,00

+281,00

+0,98%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

439,75

+4,50

+1,03%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

565,75

+11,75

+2,12%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

377,75

+9,00

+2,44%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,17

+0,12

+0,80%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.009,75

+11,25

+1,13%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

292,10

+1,30

+0,45%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

45,61

+0,12

+0,26%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

648,20

+1,50

+0,23%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.315,00

-189,00

-2,22%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

282,20

-1,10

-0,39%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,20

+0,62

+2,87%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

472,80

-7,45

-1,55%

Bông (ICE)

US cent/lb

69,02

+0,11

+0,16%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

188,30

+1,90

+1,02%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)