menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 18/4: Giá dầu và cao su giảm, vàng và cà phê tăng mạnh

11:00 19/04/2024

Thị trường hàng hóa thế giới phiên thứ Năm (18/4) biến động trái chiều.
 
Năng lượng: Giá dầu duy trì ở gần mức thấp nhất 3 tuần khi các nhà đầu tư cân nhắc dữ liệu kinh tế nhiều chiều từ Mỹ, các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Venezuela và Iran, và căng thẳng ở Trung Đông giảm bớt.
Kết thuc phiên này, dầu Brent kỳ hạn tương lai giảm 18 US cent, tương đương 0,2%, xuống 87,11 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 4 US cent, tương đương 0,1%, lên 82,73 USD. Đây là phiên thứ 2 liên tiếp dầu Brent đóng cửa ở thấp nhất kể từ ngày 27/3.
Sự quan tâm đến giao dịch năng lượng ngày càng tăng đã thúc đẩy lãi suất mở đối với hợp đồng Brent kỳ hạn tương lai trên Sàn giao dịch liên lục địa tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 2 năm 2021 ngày thứ hai liên tiếp.
Tại các thị trường năng lượng khác, giá dầu diesel Mỹ kỳ hạn tương lai giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 1, làm giảm chênh lệch giá dầu diesel, thước đo tỷ suất lợi nhuận lọc dầu, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4/2023.
Tại Mỹ, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới trong tuần trước không thay đổi, cho thấy thị trường lao động tiếp tục mạnh mẽ.
Tuy nhiên, một báo cáo khác cho thấy doanh số bán nhà hiện tại ở Mỹ trong tháng 3 giảm do lãi suất và giá nhà tăng khiến người mua phải rời khỏi thị trường.
Các nhà phân tích thuộc công ty tư vấn năng lượng Gelber and Associates cho biết: “Các số liệu kinh tế vĩ mô vừa được công bố không đồng nhất, với số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu không thay đổi so với tuần trước… (trong khi) doanh số bán nhà thuộc sở hữu trước đây của Mỹ đã giảm”.
Khả năng phục hồi của thị trường lao động Mỹ, vốn đang thúc đẩy nền kinh tế, cùng với lạm phát tăng cao đã khiến thị trường tài chính và một số nhà kinh tế dự đoán Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể trì hoãn việc cắt giảm lãi suất cho đến tháng 9.
Lãi suất thấp hơn sẽ làm giảm chi phí đi vay và có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu dầu.
Tại châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã nói rõ rằng việc cắt giảm lãi suất sẽ diễn ra vào tháng 6 nhưng các nhà hoạch định chính sách vẫn tiếp tục có quan điểm khác nhau về các động thái sau đó hoặc mức lãi suất có thể giảm xuống như thế nào trước khi bắt đầu kích thích nền kinh tế một lần nữa.
Tại Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, các quan chức cấp cao của ngân hàng trung ương cho biết vẫn còn dư địa để ngân hàng thực hiện các bước hỗ trợ nền kinh tế, nhưng cần nỗ lực để ngăn chặn tiền mặt chảy tràn khắp hệ thống ngân hàng khi nhu cầu tín dụng thực sự suy yếu.
Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tăng trưởng nhanh hơn dự kiến trong quý đầu tiên, nhưng một số chỉ số trong tháng 3, như đầu tư bất động sản, doanh số bán lẻ và sản lượng công nghiệp, cho thấy nhu cầu nội địa ở Trung Quốc vẫn còn yếu.
Về phía nguồn cung, Venezuela, thành viên OPEC đã mất giấy phép quan trọng mà của cho phép nước này xuất khẩu dầu sang các thị trường trên thế giới, điều này sẽ ảnh hưởng đến khối lượng và doanh số bán dầu thô và nhiên liệu của nước này.
Mỹ cũng công bố các lệnh trừng phạt đối với Iran, một thành viên khác của OPEC, nhắm vào hoạt động sản xuất máy bay không vũ trang của nước này sau cuộc tấn công bằng máy bay không người lái vào Israel vào cuối tuần trước.
Nhưng các biện pháp trừng phạt bổ sung không nhắm vào ngành công nghiệp dầu mỏ của Iran. Iran là nước sản xuất dầu lớn thứ ba trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), theo dữ liệu của Reuters.
Các nhà phân tích thuộc công ty tư vấn năng lượng Ritterbusch and Associates cho biết “thị trường xem nhẹ và phớt lờ”các lệnh trừng phạt đối với Venezuela và Iran.
Kim loại quý: Giá vàng tăng vào thứ Năm khi căng thẳng dai dẳng ở Trung Đông làm tăng thêm sức hấp dẫn của kim loại này bất chấp dữ liệu kinh tế mạnh mẽ từ Mỹ làm tăng giảm khả năng Mỹ sẽ cắt giảm mạnh lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 1% lên 2.384,83 USD/ounce. Giá đã chạm mức cao nhất mọi thời đại là 2,431.29 USD/ounce vào thứ Sáu tuần trước. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 6 tăng 0,4% lên 2.398 USD.
Tại Trung Đông, Israel đã phát tín hiệu sẽ trả đũa sau khi bị tấn công, bất chấp lời kêu gọi từ các nước phương Tây rằng hãy kiềm chế leo thang căng thẳng.
“Khi xuất hiện căng thẳng địa chính trị, phản ứng tự nhiên là các nhà đầu tư chạy trốn sang vàng, điều này đang xảy ra. Nếu xung đột tiếp tục leo thang, giá có thể tăng lên mức 2.500 – 2.600 USD và nếu có lệnh ngừng bắn, giá có thể giảm xuống mức 22.200 USD,” Everett Millman, nhà phân tích thị trường trưởng của Gainesville Coins, cho biết.
Giá vàng thỏi tăng bất chấp dữ liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần của Mỹ trong tuần trước không thay đổi ở mức thấp. Dữ liệu kinh tế Mỹ mạnh mẽ và những lời lẽ về chính sách tiền tệ cứng rắn của các quan chức Fed đã khiến các nhà đầu tư phải suy nghĩ lại một về khả năng Fed sẽ sớm cắt giảm lãi suất.
Lãi suất cao hơn làm giảm sự hấp dẫn của việc nắm giữ vàng không mang lại lợi nhuận.
Nhà phân tích Xiao Fu của Ngân hàng Quốc tế Trung Quốc (BOCI) cho biết, với kỳ vọng Fed cắt giảm lãi suất và hoạt đọng bán chốt lời tự nhiên xảy ra khi giá tăng nhanh, có thể có một số áp lực đối với vàng, nhưng ít khả năng giá sẽ giảm mạnh.
Giá bạc giao ngay trong phiên này tăng 0,3% lên 28,30 USD/ounce; bạch kim tăng 0,7% lên 944,25 USD và palladium tăng 0,1% lên 1.027,34 USD.
Alexander Zumpfe, một nhà giao dịch kim loại quý thuộc Heraeus Metals, cho biết: “Câu chuyện thiếu hụt bạc đang thu hút sự chú ý, với nhu cầu liên tục vượt xa nguồn cung mới. Sự mất cân bằng này có thể dẫn đến sự điều chỉnh giá đáng kể trong tương lai”.
“Xu hướng dài hạn trên thị trường bạc vẫn tăng, trong khi biến động giá ngắn hạn có thể biến động và bị ảnh hưởng bởi giao dịch hợp đồng tương lai.”
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng lên mức cao nhất 22 tháng khi các quỹ mở rộng hoạt động mua trong bối cảnh lượng hàng tồn kho thắt chặt. Đồng giao sau 3 tháng trên Tuy nhiên, các nhà phân tích cho biết sự phục hồi đã đẩy giá đồng tăng 13% từ đầu năm đến nay trái ngược với nhu cầu hàng thự ở Trung Quốc vẫn yếu.
Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), đồng kỳ hạn 3 tháng kết thúc phiên tăng 1,9% lên 9.764 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 6/2022.
Amelia Xiao Fu, người phụ trách chiến lược thị trường hàng hóa tại Bank of China International cho biết thị trường vẫn bị tác động thực sự của các lệnh trừng phạt đối với nguyên liệu của Nga và trong ngắn hạn, việc sàn LME từ chối đồng của Nga đang khiến lượng tồn trữ bị thắt chặt.
Tồn trữ đồng hàng thực trên sàn LME giảm 15.200 tấn xuống mức thấp nhất trong một tháng, là 90.400 tấn, sau khi các nhà đầu tư đưa ra thông báo cho sàn giao dịch rằng họ muốn loại bỏ hàng của Nga.
Dữ liệu về các vị thế đầu cơ cho thấy còn nhiều cơ hội để các nhà đầu tư tăng đặt cược tăng giá, nhưng nếu giá đồng trên sàn LME chạm 10.000 USD/tấn, họ sẽ phải chốt lãi, bà Fu cho biết: “Có những dấu hiệu cho thấy thực tế nhu cầu ở Trung Quốc không mạnh và người dùng ở hạ nguồn có thể sẽ trì hoãn việc mua hàng nếu giá tăng quá cao”.
Một thương nhân cho biết sự tăng giá của các kim loại cơ bản cũng trở nên trầm trọng hơn do việc bù đắp ngắn hạn.
Giá nhôm trên sàn LME tăng 1% lên 2.612 USD/tấn sau khi tồn kho LME có sẵn giảm 20.600 tấn xuống 214.275 tấn. Giá thiếc tăng 4,6% lên 34.285 USD, mức cao nhất kể từ tháng 6/2022, sau hoạt động mua vào của các quỹ và lo ngại về nguồn cung. Niken tăng 1,8% lên 18.560 USD, chì tăng 1,2% lên 2.181 USD trong khi kẽm giảm 1% xuống 2.812 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng phiên thứ 2 liên tiếp do kỳ vọng nhu cầu tăng cao tại Trung Quốc và biên lợi nhuận thép được cải thiện.
Giá quặng sắt giao tháng 9 tại Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc chốt phiên tăng 3,07% lên mức 874 nhân dân tệ (120,75 USD)/tấn. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 0,52% lên 116,45 USD/tấn vào lúc 0718 GMT, cao nhất kể từ ngày 8/3/2024, sau khi tăng hơn 5% một ngày trước đó.
Tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép thanh vằn tăng 1,18%, thép cuộn cán nóng tăng 1,16%, thanh thép tăng 1,42% và thép không gỉ tăng 1,59%.
Các nhà phân tích của Jinrui Futures cho biết: “Động lực thúc đẩy đợt tăng giá này là tồn kho các sản phẩm thép xây dựng tăng nhanh hơn dự kiến… và điều này cũng nâng cao kỳ vọng về việc các nhà sản xuất thép khởi động lại sản xuất và bổ sung nguyên liệu thô”.
Khối lượng giao dịch quặng sắt tại các cảng được khảo sát đã tăng 24,6% từ thứ Ba lên 1,15 triệu tấn vào thứ Tư, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá đậu tương và ngô Mỹ chạm mức thấp nhất 6 tuần do áp lực từ nguồn cung khổng lồ ở Nam Mỹ. Giá ngô giảm do sự lây lan của dịch bệnh còi cọc ngô ở Argentina, nước xuất khẩu ngũ cốc thức ăn chăn nuôi lớn thứ 3 thế giới. Trong khi đó, giá lúa mì tăng khi hạn hán gia tăng ở các khu vực vành đai lúa mì mùa đông Đồng bằng nước Mỹ. Kết thúc phiên, trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT), đậu tương kỳ hạn tháng 7 giảm 15-1/4 cent xuống 11,49 USD/bushel; ngô CBOT giao cùng kỳ hạn giảm 4-3/4 cent xuống 4,36-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì tăng 3/4 cent lên 5,53 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 0,27 cent, tương đương 1,4%, lên 19,59 cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 16 tháng; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 1,7% lên 568,90 USD/tấn.
Thị trường đường gần đây bị ảnh hưởng bởi thông tin nguồn cung ở châu Á và Brazil tốt hơn dự kiến, nhưng các đại lý cho biết giá giảm đã thu hút một số người mua với giá hời.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 7 giảm 133 USD, tương đương 3,2%, xuống 4.062 USD/tấn, sau khi lập kỷ lục mới trước đó là 4.292 USD. Cà phê arabica giao cùng kỳ hạn giảm 3,8% xuống 2,311 USD/lb, trước đó đạt mức cao nhất kể từ tháng 2 năm 2022 là 2,4540 USD.
Người trồng cà phê ở Việt Nam giữ hàng lại mặc dù giá đang cao kỷ lục vì dự đoán giá sẽ còn tăng nữa do khô hạn dự kiến sẽ bất lợi cho vụ tới.
Cà phê Arabica và Robusta có thể được sử dụng thay thế nhau ở một mức độ nào đó, vì cà phê theo truyền thống là một loại cà phê pha trộn, do đó sự thiếu hụt cà phê Robusta đang thúc đẩy giá cà phê Arabica.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản giảm phiên thứ hai liên tiếp theo xu hướng giá cao su hàng thực, trong bối cảnh áp lực nguồn cung giảm bớt.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn Osaka kết thúc phiên giảm 1,9 yên, tương đương 0,61%, xuống 309,6 yên (2,01 USD)/kg. Trong khi, hợp đồng cao su trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giao tháng 9 tăng 85 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 14.590 nhân dân tệ (2.015,67 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên nền tảng SICOM của sàn Singapore giảm 0,37% xuống 161,1 US cent/kg.
Giá tấm cao su hun khói xuất khẩu chuẩn (RSS3) của Thái Lan tiếp tục giảm xuống còn 87,5 baht Thái (2,38 USD)/kg.
Sản lượng mủ cao su ở các khu vực sản xuất cao su của Vân Nam dự kiến sẽ tăng sau lễ hội Songkran. Theo công ty tư vấn Zijin Tianfeng Futures có trụ sở tại Trung Quốc, ít có khả năng sẽ xảy ra các vấn đề lớn về phía cung trong năm nay.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

85,75

+3,02

+3,65%

Dầu Brent

USD/thùng

90,10

+2,99

+3,43%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

277,95

+6,58

+2,42%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,79

+0,03

+1,76%

Dầu đốt

US cent/gallon

260,07

+6,68

+2,64%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.430,20

+32,20

+1,34%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.410,06

+31,02

+1,30%

Bạc (Comex)

USD/ounce

28,97

+0,59

+2,08%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

948,52

+8,87

+0,94%

Đồng (Comex)

US cent/lb

449,95

+3,35

+0,75%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.734,50

+152,00

+1,59%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.614,50

+27,50

+1,06%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.812,50

-26,50

-0,93%

Thiếc (LME)

USD/tấn

33.979,00

+1.204,00

+3,67%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

438,75

+2,50

+0,57%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

558,75

+5,75

+1,04%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

341,25

-4,75

-1,37%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

19,08

-0,01

-0,05%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.153,75

+4,75

+0,41%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

338,20

+0,80

+0,24%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

44,70

+0,04

+0,09%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

623,00

+0,70

+0,11%

Cacao (ICE)

USD/tấn

11.035,00

+969,00

+9,63%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

231,10

-9,25

-3,85%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,54

+0,27

+1,40%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

361,55

-1,05

-0,29%

Bông (ICE)

US cent/lb

80,67

+0,06

+0,07%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

164,80

+1,60

+0,98%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)