menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 19/3: Giá dầu và cà phê tăng, vàng và cao su giảm

11:00 20/03/2024

Thị trường hàng hóa thế giới phiên thứ Ba (19/3) biến động trái chiều.
 
Năng lượng: Giá dầu tăng phiên thứ hai liên tiếp tăng lên mức cao nhất nhiều tháng do lo ngại ảnh hưởng từ cuộc tấn công ở các nhà máy lọc dầu của Nga sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung xăng dầu toàn cầu.
Kết thúc phiên, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 75 cent, tương đương 0,9%, lên 83,47 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 27/10/2023; dầu Brent tăng 0,6% lên 87,38 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 31/10/2024.
Cơ sở hạ tầng dầu mỏ của Nga năm nay đã bị nhiều đợt tấn công, với ít nhất bảy nhà máy lọc dầu bị máy bay không người lái tấn công chỉ trong tháng này. Các cuộc tấn công đã làm giảm 7%, tương đương khoảng 370.500 thùng mỗi ngày, công suất lọc dầu của Nga, tính toán của Reuters cho thấy.
Nhà phân tích năng lượng Alex Hodes của StoneX cho biết, trong khi hoạt động lọc dầu giảm đã dẫn đến xuất khẩu dầu thô của Nga tăng, điều đó cũng có thể dẫn đến việc cắt giảm sản lượng dầu thô do nước này phải đối mặt với những hạn chế về năng lực dự trữ.
Dựa trên tính toán của Hodes, các cuộc tấn công vào các nhà máy lọc dầu của Nga có thể dẫn đến giảm khoảng 350.000 thùng/ngày nguồn cung dầu mỏ toàn cầu và đẩy giá dầu thô của Mỹ thêm 3 USD/thùng.
Nhà phân tích Bjarne Schieldrop của SEB Research hôm thứ 2 cho biết ngay cả khi các cuộc tấn công không dẫn đến mất trực tiếp nguồn cung dầu thô của Nga, vẫn có hiệu ứng lan tỏa đối với giá dầu từ biên lợi nhuận sản phẩm tinh chế tăng vọt.
Giá dầu tăng một phần cũng bởi xuất khẩu dầu thô từ Saudi Arabia và Iraq sụt giảm, cũng như các dấu hiệu về nhu cầu mạnh mẽ và tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc và Mỹ.
Bộ Thương mại Mỹ cho biết hoạt động xây dựng nhà ở dành cho một gia đình ở Mỹ đã phục hồi mạnh mẽ trong tháng 2. Việc xây nhà có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ nhu cầu dầu mỏ.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Dữ liệu nhu cầu dầu đáng ngạc nhiên theo hướng tích cực và việc gia hạn cắt giảm tự nguyện của OPEC+ cho đến cuối tháng 6 đã hỗ trợ giá”.
Staunovo cho biết thêm “Brent có thể sẽ giao dịch ở mức 80-90 USD/thùng trong năm nay, với dự báo vào cuối tháng 6 là 86 USD/thùng”.
Các nguồn tin thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu khí Mỹ cho biết, tồn kho dầu thô của Mỹ giảm 1,5 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 15 tháng 3. Một cuộc thăm dò ý kiến của các nhà phân tích của Reuters dự kiến tồn kho sẽ tăng khoảng 10.000 thùng vào tuần trước.
Kim loại quý: Giá vàng giảm khi đồng đô la mạnh lên một ngày trước khi Cục Dự trữ Liên bang (Fed) báo hiệu lập trường lãi suất trong cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của ngân hàng trung ương Mỹ.
Vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 0,2% xuống 2.155,93 USD/ounce, dao động gần mức thấp nhất trong một tuần chạm tới hôm thứ Hai; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 giảm 0,2% xuống 2.159,7 USD. Đồng USD tăng 0,2%, sau khi chạm mức cao nhất hơn hai tuần trước đó trong phiên, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Giá bạc giao ngay kết thúc phiên giảm 0,5% xuống 24,91 USD/ounce, bạch kim giảm 1,8% xuống 894,19 USD, palladium giảm 3,8% xuống 992,50 USD.
Ryan McKay, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities, cho biết: Vàng đang chứng kiến "đà đi xuống”. “Hiện tại, chúng tôi không mong đợi một đợt phục hồi sớm. Trái lại, chúng tôi dự đoán sẽ có một đợt bán tháo lớn vì thị trường vật chất vẫn mạnh và dự đoán vẫn khá lạc quan.”
Giá vàng đạt mức đỉnh kỷ lục 2.194,99 USD/ounce vào ngày 8/3/2024, nhưng giá đã giảm gần 1% vào tuần trước sau khi giá tiêu dùng và giá sản xuất tháng 2 của Mỹ nóng hơn dự kiến làm giảm hy vọng Fed sớm cắt giảm lãi suất do mối đe dọa lạm phát dai dẳng. Lạm phát cao hơn khiến Fed phải giữ lãi suất ở mức cao, đè nặng lên vàng không sinh lợi suất.
Mặc dù Fed dự kiến sẽ giữ lãi suất ổn định vào thứ Tư, thị trường đang chờ đợi bình luận mới nhất của Chủ tịch Fed Jerome Powell về triển vọng lãi suất.
Mặc dù Fed được nhiều người dự đoán sẽ giữ lãi suất ổn định vào thứ Tư, nhưng thị trường đang chờ đợi bình luận từ Chủ tịch Fed Jerome Powell sau đó về triển vọng lãi suất mới nhất.
Trong khi đó, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) đã chấm dứt 8 năm lãi suất âm và những dư âm khác của chính sách không chính thống của mình.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm khi các nhà đầu tư bán chốt lời sau đợt tăng gần đây và đồng đô la tăng trước khi Fed công bố quyết định lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME giảm 1,3% xuống 8.971 USD/tấn.
Trong phiên liền trước, giá đồng đạt mức cao nhất trong 11 tháng, là 9.164,50 USD, nhờ dữ liệu sản xuất công nghiệp của Trung Quốc phù hợp với dự kiến và hoạt động mua của các quỹ. Mức tăng trưởng 7% của mặt hàng đồng trong tháng qua đã vượt lên trên tất cả các đường trung bình động kỹ thuật chính của kim loại này.
Amelia Xiao Fu, người phụ trách bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa của Bank of China International, cho biết: “Sự sụt giảm hôm nay chủ yếu là do hoạt động chốt lời và sức mạnh của chỉ số đồng đô la”.
Đồng tiền của Mỹ đang giao dịch gần mức cao nhất kể từ đầu tháng 3, khiến kim loại định giá bằng đô la trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác. Cũng đè nặng lên tâm lý thị trường là triển vọng nhu cầu ở nước tiêu dùng hàng đầu thế giới- Trung Quốc. Ông Xiao Fu cho biết: “Sau những đợt tăng giá gần đây, một số công ty dây đồng ở Trung Quốc trì hoãn việc mua hàng… và chờ giá đồng giảm”.
Trong số các kim loại cơ bản khác, giá thiếc và niken bị ảnh hưởng sau khi gián đoạn nguồn cung tại nhà sản xuất lớn Indonesia có dấu hiệu giảm bớt khi công ty khai thác thiếc hàng đầu ở nước này khôi phục xuất khẩu.
Giá thiếc trên sàn LME giảm 4,7% xuống 27.360 USD/tấn và nickel giảm 2,8% xuống 17.370 USD. Từ đầu năm đến nay, Indonesia đã cấp hạn ngạch khai thác cho khoảng 70% sản lượng quặng niken của nước này ước tính cho năm 2024 và cũng cấp một số hạn ngạch cho quặng thiếc, quặng đồng và bauxite, một nguyên liệu thô để sản xuất nhôm.
Giá nhôm trên sàn LME giảm 0,3% xuống 2.271 USD/tấn, kẽm giảm 1,1% xuống 2.505 USD và chì tăng 0,2% lên 2.094 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai tiếp tục đà tăng sang phiên thứ hai liên tiếp, lên mức cao nhất trong gần một tuần, do hoạt động mua dự trữ ở Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 5,35% ở mức 827 nhân dân tệ (114,87 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 13/3/2024. Quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 2,91% lên 106,9 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 13/3/2024.
Tại Thượng Hải, thép thanh vằn tăng 2,85%, thép cuộn cán nóng tăng 2,99%, thanh thép tăng 2,14% trong khi thép không gỉ ít thay đổi.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết: “Sự gia tăng đầu tư vào tài sản cố định sẽ giúp hỗ trợ nhu cầu thép”. Đầu tư tài sản cố định của Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm nay tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, vượt kỳ vọng là tăng 3,2%.
Khối lượng giao dịch quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc tăng 66% so với phiên trước đó lên 1,06 triệu tấn, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá lúa mì và ngô Mỹ tăng mạnh do các hoạt động giao dịch mang tính kỹ thuật khi các nhà giao dịch tìm cách nới lỏng các vị thế bán trước thời tiết mùa xuân không chắc chắn và các báo cáo sắp tới của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Trong khi đó, giá đậu tương giảm do áp lực nguồn cung cao ở Nam Mỹ và nhu cầu của Trung Quốc đối với đậu tương Mỹ giảm. Giá ngô kỳ hạn tăng do tác động từ lúa mì và thời tiết có khả năng không thuận lợi ở Vành đai trồng ngô Mỹ.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago (CBOT), giá lúa mì tăng 9-3/4 cent, tương đương 1,8%, lên 5,52-1/2 USD/bushel. Giá ngô tăng 3-1/2 cent lên 4,39-1/2 USD/bushel trong khi đậu tương kết thúc giảm 2-1/4 cent xuống 11,85-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 2,7% xuống 21,57 cent/lb do vụ thu hoạch ở Ấn Độ và Thái Lan được cải thiện và vành đai trồng mía ở Brazil dự kiến tuần tới sẽ đón những cơn mưa để giải hạn. Đường trắng kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 1,6% xuống 617,80 USD/tấn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 0,4% lên 3.355 USD/tấn; cà phê arabica giao cùng kỳ hạn tăng 0,3% lên 1,8100 USD/lb.
Rabobank dự kiến thặng dư cà phê toàn cầu năm 2023/24 là 0,5 triệu bao, nhưng giữ quan điểm trung lập về giá trên cơ sở giả định bất kỳ sự gia tăng nguồn cung nào cũng sẽ được bù đắp bằng việc các nhà chế biến sẽ ngay lập tức mua vào để dự trữ. Điều này đặc biệt xảy ra ở EU, nơi luật cấm nhập khẩu cà phê liên quan đến nạn phá rừng sẽ có hiệu lực vào năm tới.
Giá cao su kỳ hạn tương lai trên thị trường Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất 3 ngày sau 10 ngày tăng do giá dầu giảm. Hợp đồng cao su giao tháng 8/2024 kết thúc phiên giảm 7,7 yên, tương đương 2,17%, xuống 346,5 yên (2,31 USD)/kg, mức thấp nhất kể từ ngày 15/3/2024. Giá cao su giao tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 225 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 15.395 nhân dân tệ (2.138,43 USD)/tấn, sau khi đạt 15.805 nhân dân tệ vào đầu phiên. Hợp đồng cao su giao tháng 4/2024 tại Sở giao dịch Singapore chốt phiên ở mức 171,8 US cent/kg, giảm 0,87%.
Giá cao su tấm hun khói (RSS3) của Thái Lan giảm từ mức cao nhất trong 7 năm, giảm xuống mức 98,53 baht Thái (2,74 USD)/kg, FOB, thấp hơn 1,41% so với thứ Hai.
Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) hôm thứ Ba đã quyết định chấm dứt chính sách lãi suất âm, đánh dấu lần tăng lãi suất đầu tiên của nước này kể từ năm 2007. Trong khi đó, cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo về những cơn bão mùa hè từ ngày 19-20/3 có khả năng gây thiệt hại mùa màng.
Thị trường tài chính Nhật Bản sẽ đóng cửa vào ngày 20/3 để nghỉ lễ và giao dịch sẽ tiếp tục trở lại vào ngày 21/3.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

83,11

-0,36

-0,43%

Dầu Brent

USD/thùng

87,14

-0,24

-0,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

274,04

-2,18

-0,79%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,75

+0,00

+0,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

274,81

-1,26

-0,46%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.182,70

+1,50

+0,07%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.158,75

+1,16

+0,05%

Bạc (Comex)

USD/ounce

25,14

+0,01

+0,02%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

894,75

-2,24

-0,25%

Đồng (Comex)

US cent/lb

407,45

0,00

0,00%

Đồng (LME)

USD/tấn

8.976,50

-112,50

-1,24%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.269,00

-8,50

-0,37%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.505,50

-26,50

-1,05%

Thiếc (LME)

USD/tấn

27.445,00

-1.255,00

-4,37%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

438,50

-1,00

-0,23%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

550,75

-1,75

-0,32%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

359,00

+2,50

+0,70%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

17,73

0,00

0,00%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.184,50

-1,00

-0,08%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

333,90

0,00

0,00%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

48,06

-0,08

-0,17%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

634,10

-0,40

-0,06%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.027,00

-145,00

-1,77%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

183,05

+1,30

+0,72%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

21,64

-0,52

-2,35%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

357,85

-2,60

-0,72%

Bông (ICE)

US cent/lb

93,21

-0,13

-0,14%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

175,20

+1,80

+1,04%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)