menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG tuần đến 26/7/2024: Giá hầu hết giảm

06:00 29/07/2024

Tuần qua, giá dầu, vàng, kim loại công nghiệp, nông sản… hầu hết đều giảm.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm khá mạnh trong tuần
Giá dầu giảm khoảng 1,5% trong phiên cuối tuần, kết thúc một tuàn giảm giá do nhu cầu của Trung Quốc yếu và hy vọng một thỏa thuận ngừng bắn tại Gaza có thể làm dịu bớt căng thẳng ở Trung Đông cũng như lo ngại về nguồn cung.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá dầu thô Brent giảm 1,24 USD hay 1,5% xuống 81,13 USD/thùng. Dầu WTI giảm 1,12 USD hay 1,4% xuống 77,16 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm hơn 1% và dầu WTI giảm hơn 3%.
Số liệu tăng trưởng GDP của Mỹ công bố hôm thứ 5 tốt hơn dự kiến đã hỗ trợ thị trường dầu thô lúc đầu phiên. Tuy nhiên, sau đó xuất hiện lo ngại nhu cầu dầu thô của Trung Quốc có thể giảm.
Dữ liệu được công bố vào tuần trước cho thấy tổng lượng dầu nhiên liệu nhập khẩu của Trung Quốc đã giảm 11% trong nửa đầu năm 2024, làm dấy lên lo ngại về triển vọng nhu cầu nói chung ở Trung Quốc.
"Tình hình nhu cầu của Trung Quốc đang đi xuống và giá dầu thô cũng giảm theo", Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai tại Mizuho ở New York cho biết.
Nền kinh tế Trung Quốc có nguy cơ bước vào chu kỳ giảm phát, khi giá cả sẽ giảm do nhu cầu giảm, ông Yawger cho biết."Và đó là kịch bản tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một quốc gia là nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất hành tinh", ông nói thêm.
Trong khi đó, nhu cầu từ quốc gia tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới cũng được dự đoán sẽ giảm bớt khi các nhà máy lọc dầu của Mỹ đang chuẩn bị cắt giảm sản lượng khi mùa lái xe - mùa hè, vào đầu tháng 9 - sắp kết thúc.
Nhà máy lọc dầu lớn thứ hai của nước này, Valero Energy cho biết 14 nhà máy của họ sẽ hoạt động ở mức 92% tổng công suất trong quý 3. Các nhà máy lọc dầu của Valero đã hoạt động ở mức 94% công suất trong quý 2.
Tại Trung Đông, hy vọng một lệnh ngừng bắn ở Gaza đang ngày càng tăng. Một lệnh ngừng bắn đang tiến gần hơn bao giờ hết.
Kim loại quý: Giá vàng giảm trong tuần
Giá vàng tăng 1% trong phiên cuối tuần do lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ giảm bởi lạc quan về thời điểm Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 sau khi số liệu cho thấy giá tiêu dùng trong tháng 6 tăng vừa phải. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vàng giảm.
Kết thúc phiên thứ sáu, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 2.382,98 USD/ounce, sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 9/7 trong phiên trước đó. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 1,2% lên 2.381 USD/ounce.
Phiên này, giá bạc giao ngay giảm 0,6% xuống 27,80 USD/ounce, bạch kim giảm 0,2% xuống 930,86 USD, trong khi palladium giảm 1,1% xuống 896,50 đô la.
Tính chung cả tuần, giá vàng giảm; trong khi giá bạc, bạch kim và palladium cũng giảm tuần thứ ba liên tiếp."Một số dữ liệu kinh tế Mỹ vừa công bố cho thấy áp lực lạm phát và hoạt động kinh tế đang suy yếu, mở đường cho Fed cắt giảm lãi suất hai lần trong năm nay", Fawad Razaqzada, nhà phân tích thị trường tại Forex.com cho biết.
Các nhà hoạch định chính sách của Fed đã có bằng chứng mới về tiến triển trong cuộc chiến chống lạm phát, làm dấy lên kỳ vọng cuộc họp tuần tới báo hiệu Fed sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 9. Lãi suất giảm làm giảm chi phí giữ vàng.
Cục Phân tích Kinh tế thuộc Bộ Thương mại Mỹ cho biết chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) đã tăng nhẹ 0,1% trong tháng 6 sau khi không đổi vào tháng 5. Sau khi dữ liệu này được công bố, lợi suất trái phiếu chuẩn kỳ hạn 10 năm đã giảm xuống mức thấp nhất trong một tuần.
Trong khi đó, nhu cầu vật chất ở Ấn Độ, quốc gia tiêu thụ lớn thứ hai thế giới, đã được thúc đẩy khi nước này cắt giảm thuế nhập khẩu vàng và bạc vào đầu tuần này. Mức cộng giá vàng ở Ấn Độ trong tuần này cũng tăng lên cao nhất trong một thập kỷ.
"Bất kỳ sự gia tăng nào mà chúng ta thấy từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc có xu hướng có tác động đến nhu cầu chung bên ngoài. ... Tôi nghĩ động thái giảm thuế (ở Ấn Độ) chỉ có thể có tác động tích cực đến nhu cầu", Everett Millman, nhà phân tích thị trường chính của Gainesville Coins cho biết.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và quặng sắt giảm trong tuần
Giá đồng giảm trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần cũng giảm tuần thứ 3 liên tiếp do lo ngại rằng hoạt động mua đồng giao ngay ở Trung Quốc có thể không kéo dài do nền kinh tế này vẫn trì trệ bởi thiếu vắng có các biện pháp kích thích mạnh mẽ.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,1% xuống 9.107 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm 2,2%. So với thời điểm giá đồng cao kỷ lục hồi tháng 5, giá đồng hiện đã giảm 17,8%.
Đối với các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME phiên thứ Sáu tăng 0,8% lên 2.288,5 USD/tấn, chì tăng 2% lên 2.071USD/tấn, kẽm giảm 0,5% xuống 2.667,5 đô la, thiếc tăng 0,6% lên 29.585 đô la và niken tăng 0,4% lên 15.835 đô la.
Tồn kho đồng của sàn giao dịch Thượng Hải giảm xuống mức thấp nhất hai tháng, là 301.203 tấn.
Trung Quốc báo cáo tăng trưởng kinh tế yếu hơn dự kiến và cuộc họp của các lãnh đạo chủ chốt nước này không đưa ra bất cứ kế hoạch nào về kích thích kinh tế mới.
Thị trường cũng đang theo dõi cuộc họp chính sách tiền tệ của Fed, sẽ diễn ra vào ngày 31/7, để tìm kiếm manh mối về thời điểm Fed cắt giảm lãi suất, dự kiến vào tháng 9.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc tăng trong phiên cuối tuần, kết thúc 3 phiên giảm giá trước đó, nhờ một gói kích thích kinh tế mới, nhưng tính chung cả tuần giảm trong bối cảnh những lo ngại về nhu cầu từ lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.
Kết thúc phiên này, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc tăng 1,5% lên 779 CNY (107,45 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá giảm 2,75%.
Tại Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 8 tăng 1,94% lên 101,85 USD/tấn, theo tuần giảm 4,41%, giảm mạnh nhết theo tuần kể từ ngày 7/6.
Hầu hết các loại théo trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều ghi nhận mức tăng trong phiên cuối tuần. Theo đó, gía thép thanh và thép cuộn cán nóng tăng khoảng 0,65%, dây thép cuộn tăng 0,44%, trong khi đó thép không gỉ giảm 0,22%.
Trung Quốc vừa phân bổ 300 tỷ nhân dân tệ (41,40 tỷ đô la) vào quỹ trái phiếu để phục hồi kinh tế, bao gồm trợ cấp để thay thế và nâng cấp hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp sử dụng nhiều thép, Cameron Law, một nhà phân tích hàng hóa tại Navigate Commodities cho biết.
Tuy nhiên, ông Law cho rằng mặc dù gói kích thích kinh tế có triển vọng cho hoạt động sản xuất, nhưng quy mô tổng thể của gói này sẽ không đủ để giảm bớt những khó khắn của ngành xây dựng.
Các báo cáo về lượng thép tồn kho tăng từ Trung Quốc cho thấy sự yếu kém trên thị trường thép vẫn tiếp diễn trong bối cảnh hoạt động xây dựng trong lĩnh vực bất động sản suy giảm.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy lượng tồn kho thép thành phẩm tại các kho của thương nhân ở 132 thành phố của Trung Quốc đã giảm 0,8% so với tuần trước trong giai đoạn 19-25/7, xuống mức thấp nhất trong một tháng là 21 triệu tấn, nhưng tăng 11,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nông sản: Giá cà phê, cao su, lúa mì giảm trong tuần
Giá lúa mì Mỹ giảm trong phiên cuối tuần do dự đoán các cánh đồng lúa mì vụ xuân tại bang Dakota sẽ có sản lượng cao kỷ lục. Giá ngô và đậu tương cũng giảm trong phiên này.
Kết thúc phiên, trên sàn giao dịch Chicago, giá lúa mì đỏ mềm đông giao tháng 9 giảm 14-1/4 US cent xuống 5,23-1/2 USD/bushel, giảm 3,5% trong tuần giảm thứ 3; giá ngô kỳ hạn tháng 9 đóng cửa giảm 11-1/2 US cent xuống 3,945 USD/bushel, tính chung cả tuần giá ngô tăng 1,3%; đậu tương kỳ hạn tháng 8 đóng cửa giảm 38-1/2 US cent xuống 10,77-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng của phiên cuối tuần giảm 0,24 US cent hay 1,3% xuống 18,42 US cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 0,9% xuống 526,7 USD/tấn.
Ngân hàng Citi cho biết lượng mưa dưới mức bình thường tại Brazil cho thấy sản lượng mùa vụ yếu hơn, có thể giảm 2 triệu tấn trong niên vụ 2024/25. Dự kiến giá đường thô trung bình 19,5 US cent/lb trong quý 3 và 20 US cent/lb trong quý 4.
Giá cà phê giảm trong phiên cuối tuần, nhưng vẫn được hỗ trợ bởi lo ngại về thời tiết bất lợi, đặc biệt là ở quốc gia sản xuất hàng đầu thế giới - Brazil.
Theo đó, cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa giảm 4,45 US cent hay 1,9% xuống 2,3025 USD/lb, giá xuống thấp nhất 3 tuần tại 2,2750 USD/lb trong ngày 25/7, tính chung cả tuần giá giảm 1,9%. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 2,1% xuống 4.302 USD/tấn.
Áp lực lên giá là tốc độ thu hoạch tăng lên tại nhà sản xuất hàng đầu Brazil, nhờ thời tiết khô gần đây.
Tuy nhiên, Citi cho biết họ đã điều chỉnh giảm dự báo sản lượng niên vụ này ở cả Việt Nam và Brazil do thời tiết yếu kém, và hiện nay dự kiến thị trường toàn cầu ghi nhận dư thừa 100.000 bao loại 60 kg/bao trong niên vụ 2023/24. Citi dự kiến giá arabica trung bình là 2,45 USD/lb trong quý 3, cao hơn 10 US cent so với dự báo trước đó.
Cao su kỳ hạn tương lại tại Nhật Bản đóng cửa phiên cuối tuần tăng theo xu hướng giá giao ngay, mặc dù tính chung cả tuần giảm.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên này tăng 2,4 JPY hay 0,76% lên 317,7 JPY (2,07 USD)/kg, tính chung cả tuần giảm 0,41%.
Tại Thượng Hải, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 tăng 15 CNY hay 0,1% lên 14.365 CNY (1.981,6 USD)/tấn. Giá đã giảm 1,41% trong tuần này, tuần giảm mạnh nhất kể từ 5/7.
Hợp đồng cao su tháng 8 trên sàn Singapore Exchange tăng 0,4% lên 161,2 cent Mỹ/kg
Giá cao su tấm hun khói xuất khẩu của Thái Lan tăng 1,12% lên 80,07 baht Thái Lan/kg FOB.
Nhu cầu chung từ các nhà sản xuất lốp xe vẫn tiếp tục ở mức thấp trong tuần này, Farah Miller, CEO của công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su Helixtap Technologies cho biết. Miller cho biết thêm, trong bối cảnh nhu cầu của Trung Quốc ổn định và mức tồn kho dồi dào, người mua đã trở nên thận trọng sau khi giá cao su tương lai giảm vào đầu tuần này.
Cả giá cao su tương lai tại Osaka và Thượng Hải đều giảm xuống mức thấp nhất hai tháng vào thứ năm.
Đồng Yên hôm thứ sáu ở mức 153,66 JPYso với đô la, tăng 2,5% trong tuần, mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ cuối tháng 4-đầu tháng 5.
Đồng tiền Nhật Bản mạnh hơn khiến các tài sản được định giá bằng đồng yên trở nên khó tiếp cận hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Diễn biến giá hàng hóa:

ĐVT

19/7

26/7

26/7 so với 25/7

26/7 so với 25/7 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

80,47

77,16

-1,12

-1,43%

Dầu Brent

USD/thùng

82,93

81,13

-1,24

-1,51%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

245,68

246,05

-0,71

-0,29%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,16

2,01

-0,04

-1,71%

Dầu đốt

US cent/gallon

242,56

241,97

-5,15

-2,08%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.450,40

2.427,90

+28,00

+1,17%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.401,30

2.387,19

+22,63

+0,96%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,17

28,02

+0,05

+0,16%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

961,09

940,30

+2,97

+0,32%

Đồng (Comex)

US cent/lb

420,75

412,40

-0,15

-0,04%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.310,00

9.111,00

-11,00

-0,12%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.351,50

2.289,00

+18,50

+0,81%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.776,50

2.669,00

-12,00

-0,45%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.050,00

29.571,00

+155,00

+0,53%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

409,75

410,00

-10,75

-2,56%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

546,75

523,50

-14,25

-2,65%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

328,50

312,25

-10,50

-3,25%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,39

15,24

+0,23

+1,50%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.052,75

1.048,50

-31,00

-2,87%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

312,80

324,70

-4,50

-1,37%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

44,41

41,83

-2,34

-5,30%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

656,80

646,50

-25,20

-3,75%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.689,00

6.955,00

+215,00

+3,19%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

238,20

230,25

-4,45

-1,90%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,66

18,42

-0,24

-1,29%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

433,20

433,80

+13,70

+3,26%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,02

67,99

-0,91

-1,32%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

166,00

165,40

+1,90

+1,16%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)