menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG tuần tới 15/11: Giá đồng loạt giảm

08:21 18/11/2024

Tuần qua, giá dầu, vàng, kim loại cơ bản và nông sản đều có xu hướng giảm.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh trong tuần
Giá dầu giảm hơn 2% trong phiên thứ Sáu và ghi nhận tuần giảm mạnh nhất trong một tháng do các nhà đầu tư lo ngại về nhu cầu giảm ở Trung Quốc và khả năng Mỹ giảm tốc độ cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên này, dầu thô Brent giảm 1,52 USD hay 2,09% xuống 71,04 USD/thùng. Dầu WTI giảm 1,68 USD hay 2,45% xuống 67,02 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, dầu Brent giảm khoảng 4% trong khi dầu WTI giảm 5%, tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 10.
Theo số liệu từ Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, lượng dầu thô các nhà máy lọc dầu của nước này xử lý trong tháng 10 thấp hơn 4,6% so với một năm trước đó do mọt số nhà máy đóng cửa và các nhà máy độc lập quy mô nhỏ giảm công suất hoạt động.
Sản xuất tại các nhà máy Trung Quốc trong tháng 10 tăng chậm lại và nhu cầu bất động sản vẫn yếu, làm gia tăng nỗi lo của nhà đầu tư về sức khỏe của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới – cũng là nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới.
Tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump đã cam kết chấm dứt quy chế quốc gia được ưu đãi thương mại nhất của Trung Quốc và áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc vượt quá 60% - cao hơn nhiều so với mức thuế được áp dụng trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông.
Các nhà kinh tế của Goldman Sachs Research đã giảm nhẹ dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2025, sau khi tính tới khả năng Mỹ sẽ tăng thuế đáng kể dưới thời tổng thống Trump.
Giá dầu tuần qua giảm cũng bởi các tổ chức lớn đều dự báo tăng trưởng nhu cầu toàn cầu chậm lại.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo nếu OPEC+ vẫn giữ tốc độ cắt giảm nguồn cung như hiện nay thì nguồn cung toàn cầu vượt nhu cầu hơn 1 triệu thùng/ngày trong năm 2025.
Trong khi đó, OPEC điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cẩu năm nay và năm 2025 do nhu cầu yếu tại Trung Quốc, Ấn Độ và các khu vực khác.
Doanh số bán lẻ của Mỹ trong tháng 10 tăng cao hơn một chút so với dự kiến, cho thấy nền kinh tế này khởi động quý 4 một cách mạnh mẽ. Dữ liệu này càng làm căng thẳng cuộc tranh luận giữa các nhà hoạch định chính sách của Fed về tốc độ và mức độ cắt giảm lãi suất khi các nhà đầu tư tiếp tục hạ thấp dự đoán của họ về việc giảm lãi suất trong cuộc họp của ngân hàng trung ương Mỹ vào tháng 12/2024. Lãi suất thường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó hỗ trợ nhu cầu nhiên liệu.
Tuy nhiên, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Boston, Susan Collins, khi phát biểu trên kênh truyền hình Bloomberg đã không loại trừ khả năng cắt giảm lãi suất vào tháng 12.
Kim loại quý: Giá vàng trải qua tuần giảm mạnh nhất trong 3 năm
Giá vàng giảm trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng hơn 3 năm do khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giảm tốc độ hạ lãi suất khiến USD tăng mạnh làm giảm sức hấp dẫn của vàng thỏi.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 2.565,49 USD/ounce, vàng giao sau giảm 0,1% xuống 2.570,10 USD/ouunce.
Tính chung cả tuần, giá giảm hơn 4%, mức giảm nhiều nhất trong vòng hơn 3 năm. Trong đó, phiên thứ Năm giá chạm mức thấp nhất kể từ 12/9/2024.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay giảm 0,4% xuống 30,32 USD/ounce, bạch kim giảm 0,1% xuống 939,22 USD và palladium tăng 0,7% lên 947,77 USD. Tính chung cả tuần, cả 3 kim loại quý này đều giảm.
Chỉ số Dollar index tăng mạnh nhất trong vòng hơn một tháng là nguyên nhân trực diện gây áp lực giảm giá vàng. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tiếp tục tăng sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán lẻ trong tháng 10/2024 tại nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tăng nhiều hơn dự kiến.
Các nhà kinh tế tin tưởng kế hoạch áp thuế của Tổng thống đắc cử Donald Trump sẽ làm tăng lạm phát, khả năng làm chậm lại chu kỳ giảm lãi suất của Fed.
“Tất cả những yếu tố bất ổn ngắn hạn đã hoàn toàn biến mất. Do đó. Thị trường vàng đã bị chi phối trở lại bởi những nguyên tắc cơ bản”, Alex Ebkarian, giám đốc điều hành tại Allegiance Gold cho biết.
Các nhà kinh tế tin rằng các kế hoạch thuế quan của Tổng thống đắc cử Donald Trump sẽ làm gia tăng lạm phát, có khả năng làm chậm chu kỳ nới lỏng lãi suất của Fed.
Chủ tịch Fed Jerome Powell trong một bài phát biểu hôm thứ Năm tuần qua cho biết ngân hàng trung ương Mỹ không cần phải vội vàng hạ lãi suất.
Kim loại công nghiệp: Giá hầu hết giảm trong tuần
Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London kết thúc phiên thứ Sáu tăng 0,2% lên 9.006 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong ba tháng vào thứ năm.
Thị trường kim loại cơ bản đang diễn biến theo xu hướng tỷ giá USD, trong bối cảnh nhiều yếu tố bất ổn tiếp tục gây áp lực lên thị trường này. Dữ liệu vào thứ Sáu cho thấy tăng trưởng sản lượng nhà máy của Trung Quốc trong tháng 10 đã chậm lại.
Giá nhôm tăng mạnh trong phiên cuối tuần sau khi Trung Quốc thông báo sẽ hủy bỏ việc hoàn thuế xuất khẩu, gây lo ngại có thể làm hạn chế lượng xuất khẩu lớn ra nước ngoài.
Kết thúc phiên này, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn LME tăng khoảng 8,5% lên 2.730 USD/tấn và đóng cửa tăng 5,6% lên 2.658,5 USD/tấn, gần chạm mức cao nhất 3 năm (2.732 USD) đạt được vào tuần trước do nguồn cung bauxite và alumina, nguyên liệu thô để sản xuất nhôm nguyên sinh, bị gián đoạn.
Bộ Tài chính Trung Quốc hôm thứ Sáu cho biết họ sẽ hủy việc hoàn thuế xuất khẩu các sản phẩm nhôm và đồng, có hiệu lực từ ngày 1/12. Nhà phân tích Ross Strachan của công ty tư vấn CRU cho biết tác động dài hạn của quyết định này hiện chưa rõ ràng. Trung Quốc xuất khẩu 4 – 6 triệu tấn nhôm bán thành phẩm mỗi năm, chiếm khoảng 7% nguồn cung toàn cầu.
Giá kẽm phiên thứ Sáu tăng 0,2% lên 2.949 USD một tấn, trong khi niken giảm 0,6% xuống 15.530 USD, chì giảm 0,2% xuống 1.957 USD và thiếc giảm 1,1% xuống 28.620 USD.
Tính chung cả tuần, giá kim loại cơ bản hầu hết giảm.
Giá quặng sắt giảm xuống mức thấp nhất gần hai tháng trong phiên thứ Sáu, tính chung cả tuần cũng giảm do lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc tiếp tục yếu trong khi nguồn cung quặng sắt cao và nhu cầu thép giảm theo mùa vụ.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 3,09% xuống 736 CNY (101,8 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 27/9. Tính chung cả tuần giá giảm 6,18%. Tại Singapore quặng sắt kỳ hạn tháng 12 giảm 1,7% xuống 96,6 USD/tấn, giảm 4,18% trong tuần qua.
Giá các sản phẩm thép cũng giảm. Tại Thượng Hải, thép thanh giảm khoảng 2,8%, thép cuộn cán nóng giảm 2,2%, dây thép cuộn giảm 0,36% và thép không gỉ giảm gần 0,5%.
Giá nhà mới của Trung Quốc trong tháng 10 giảm mạnh nhất so với năm trước kể từ năm 2015, trong khi đầu tư bất động sản giảm 10,3% trong 10 tháng đầu năm 2024, cho thấy các biện pháp hỗ trợ của Bắc Kinh đối với lĩnh vực này cho tới nay vẫn chưa có nhiều tác động.
Hoạt động xây dựng giảm theo mùa trong bối cảnh thời tiết lạnh hơn ở khắp Trung Quốc đang ảnh hưởng tới nhu cầu thép, hoạt động ở các công trường đang chậm lại hay dừng hẳn ở các khu vực phía bắc.
Nông sản: Giá hầu hết giảm
Giá ngô Mỹ tăng trong phiên thứ Sáu do giao dịch kỹ thuật sau 4 ngày giảm liên tiếp bởi lo ngại về nhu cầu nếu chính quyền của Tổng thống đắc cử Donald Trump không thân thiện với ngành nhiên liệu sinh học như dự đoán. Giá lúa mì của Mỹ phục hồi sau một tuần thấp nhất nhiều tháng bởi USD tăng trong nhiều ngày.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,05 US cent lên 4,24 USD/bushel, trong khi lúa mì đỏ vụ đông mềm kỳ hạn tháng 12 tăng 6-1/4 US cent lên 5,36-1/2 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngô tăng nhẹ trong khi lúa mì giảm.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,1% lên 21,58 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 0,1 USD xuống 545,2 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường giảm
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2025 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 0,039 US cent hay 1,4% lên 2,833 USD/lb, tăng hướng tới mức cao 13 năm của phiên trước đó; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2025 giảm 4 USD hay 0,1% xuống 4.773 USD/tấn.
Tính chung cả tuần, giá cà phê tăng.
Các đại lý cho biết có một số bất lợi cho vụ năm tới tại Brazil do thời tiết khô hạn vào đầu năm nay với độ ẩm của đất vẫn thấp bất chấp mưa gần đây.
Công ty môi giới Sucden Financial cho biết các chỉ số kỹ thuật tích cực khẳng định rằng chúng ta có thể thấy giá tiếp tục tăng trong ngắn hạn, mặc dù đà tăng có thể chậm lại.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng trong phiên cuối tuần bởi đồng JPY yếu, nhưng có tuần giảm trong bối cảnh lo lắng về nhu cầu tại Trung Quốc.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2025 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 6 JPY hay 1,74% lên 350 JPY (2,24 USD)/kg. Hợp đồng này đã giảm 4,71% trong tuần này.
Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 1/2025 đóng cửa giảm 0,65 CNY hay 0,37% xuống 17.650 CNY (2.441,62 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Singapore tăng 0,4% lên 187,3 US cent/kg.
Cơ quan khí tượng của Thái Lan, nhà sản xuất cao su hàng đầu, đã cảnh báo về mưa lớn và lũ quét từ ngày 15 đến 21 tháng 11.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá 8/11

Giá 15/11

Giá 15/11 so với 14/11

Giá 15/11 so với 14/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,38

67,02

-1,68

-2,45%

Dầu Brent

USD/thùng

73,87

71,04

-1,52

-2,09%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

201,25

194,93

-3,24

-1,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,67

2,82

+0,04

+1,36%

Dầu đốt

US cent/gallon

223,89

217,09

-4,14

-1,87%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.694,80

2.570,10

-2,80

-0,11%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.684,77

2.563,25

-1,60

-0,06%

Bạc (Comex)

USD/ounce

31,45

30,43

-0,14

-0,45%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

972,49

941,80

+0,86

+0,09%

Đồng (Comex)

US cent/lb

430,60

410,90

-3,15

-0,76%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.443,50

9.002,50

+12,50

+0,14%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.620,50

2.649,50

+133,00

+5,29%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.979,50

2.947,50

+5,00

+0,17%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.648,00

28.742,00

-190,00

-0,66%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

431,00

435,25

+4,50

+1,04%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

572,50

554,00

+5,75

+1,05%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

361,50

368,75

+7,75

+2,15%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,37

15,05

+0,38

+2,56%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.030,25

998,50

+11,00

+1,11%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

296,20

290,80

+1,70

+0,59%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

48,77

45,49

+0,93

+2,09%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

665,10

646,70

+19,10

+3,04%

Cacao (ICE)

USD/tấn

6.987,00

8.504,00

-2,00

-0,02%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

253,10

283,30

+3,90

+1,40%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

21,82

21,58

+0,02

+0,09%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

466,65

480,25

-5,70

-1,17%

Bông (ICE)

US cent/lb

70,98

68,91

-1,65

-2,34%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

200,00

187,50

+0,20

+0,11%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)