Năng lượng: Giá dầu giảm
Giá dầu giảm trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần cũng giảm nhẹ do khả năng ngừng bắn ở Gaza, nhưng số giàn khoan ở Mỹ giảm dã hạn chế giá dầu giảm mạnh.
Kết thuc phiên này, dầu Brent kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 35 US cent xuống 85,43 USD/thùng, dầu WTI giảm 44 US cent xuống 80,63 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều giảm gần 1%.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC, cho biết: “Mọi người đang theo dõi những gì sẽ xảy ra cuối tuần ở dải Gaza”, đồng thời cho biết thêm rằng các cuộc đàm phán hòa bình thành công sẽ thúc đẩy phiến quân Houthi ở Yemen cho phép các tàu chở dầu đi qua Biển Đỏ.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm thứ Năm cho biết ông tin rằng các cuộc đàm phán ở Qatar có thể đạt được thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza giữa Israel và Hamas.
Ông Blinken đã gặp các ngoại trưởng Saudi Arabia và Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah El-Sisi ở Cairo khi các nhà đàm phán ở Qatar tập trung vào một thỏa thuận ngừng bắn kéo dài khoảng sáu tuần.
Trong khi đó, đồng đô la Mỹ tăng mạnh tuần thứ 2 liên tiếp sau khi Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ bất ngờ cắt giảm lãi suất vào thứ Năm đã củng cố tâm lý ưa chuộng tài sản rủi ro trên toàn cầu.
Đồng USD tăng mạnh khiến dầu trở nên đắt hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ tiền tệ khác và làm giảm nhu cầu dầu.
Trong khi lệnh ngừng bắn có thể có nghĩa là dầu thô có thể di chuyển tự do hơn trên toàn cầu, số giàn khoan dầu ở Mỹ giảm và khả năng nới lỏng lãi suất của Mỹ đã giúp hỗ trợ giá.
Jim Ritterbusch, thuộc Ritterbusch and Associates, có trụ sở tại Houston, cho biết: “Chúng tôi vẫn đang duy trì mức giá cao mới trong bối cảnh nhu cầu đối với tài sản rủi ro gia tăng trên diện rộng sau những bình luận của Fed vào giữa tuần tỏ ra không quá mong muốn duy trì thắt chặt tiền tệ”.
Chứng khoán Mỹ, vốn có xu hướng biến động tương quan với giá dầu, đã đạt mức cao kỷ lục sau khi Cục Dự trữ Liên bang kết thúc cuộc họp thường kỳ mà không có thay đổi nào về lãi suất của Mỹ vào thứ Tư.
Theo dữ liệu của Baker Hughes, số giàn khoan dầu của Mỹ giảm 1 giàn xuống 509 trong tuần này, cho thấy nguồn cung dầu trong tương lai sẽ giảm.
Xung đột ở Đông Âu cũng khiến giá dầu không thể giảm xuống. Kyiv cho biết Nga đã tiến hành cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái lớn nhất vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine, đánh trúng con đập lớn nhất nước này và gây mất điện ở một số khu vực.
Tuy nhiên, trên thị trường đã xuất hiện những tranh cãi rằng Nga sẽ giảm giá thêm các thùng dầu của mình trong bối cảnh xung đột leo thang, Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai tại Mizuho cho biết. Mức chiết khấu cao hơn có thể khiến dầu thô Nga hấp dẫn hơn đối với người mua quốc tế.
Kim loại quý: Giá vàng tăng nhẹ trong tuần
Giá vàng giảm trong phiên cuối tuần do đồng USD tăng mạnh, song tính chung cả tuần giá tăng, sau khi đạt mức cao kỷ lục vào thứ Năm bởi kế hoạch cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 2.160,63 USD/ounce, song tính chung cả tuần giá tăng 0,2%. Vàng kỳ hạn tháng 4/2024 giảm 1,1% xuống 2.160 USD/ounce.
Giá vàng kỳ hạn GCcv1 của Mỹ giảm 1,1% ở mức 2.160 USD.
Giá bạc phiên thứ Sáu giảm 0,6% xuống 24,62 USD/ounce, bạch kim giảm 1,6% xuống 893,92 USD và palladium giảm 1,9% xuống 991,26 USD. Cả 3 kim loại quý này đều có xu hướng giảm hàng tuần.
Giá đạt mức cao kỷ lục vào thứ Năm sau khi Cục Dự trữ Liên bang cho biết họ vẫn có ý định cắt giảm lãi suất ba lần trong năm nay.
Đồng USD đạt mức cao nhất hơn 1 tháng, khiến vàng trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác.
Nhưng “miễn là lãi suất thực giảm, ngân hàng trung ương tiếp tục mua vàng cùng với nhu cầu bán lẻ và nhu cầu mua phòng ngừa rủi ro chính trị thì mức độ điều chỉnh (giảm giá vàng) chỉ hạn chế”, Phillip Streible, chiến lược gia trưởng thị trường tại Blue Line Futures ở Chicago, cho biết.
Ông Streible nói thêm rằng vàng sẽ cần phải duy trì trên mức hỗ trợ khoảng 2.150 – 2.145 USD để tiếp tục đà tăng.
Theo CME FedWatch Tool, các nhà giao dịch đang dự đoán xác suất 76% Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 6, tăng từ mức 65% trước cuộc họp chính sách mới nhất. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng không sinh lời.
Dòng đầu tư vào vàng đạt mức cao nhất trong gần một năm trong tuần tính đến thứ Tư, Bank of America Global Research cho biết.
Tại các thị trường vàng hàng thực, các cửa hàng trang sức ở Ấn Độ vắng vẻ trong tuần này khi giá cao kỷ lục cản trở nhu cầu, nhưng Trung Quốc vẫn thấy nhu cầu ổn định.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm trong tuần, nhôm và quặng sắt tăng
Giá đồng giảm trong phiên thứ Sáu do đồng USD tăng mạnh và các nhà đầu tư bán chốt lời sau đợt giá tăng gần đây.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,1% xuống 8.855,5 USD/tấn.
Mặc dù giảm trong phiên này, song tính từ đầu tháng 2/2024 đến nay giá đồng tăng 13% và đạt mức cao kỷ lục 11 tháng (9.025,5 USD/tấn) trong phiên ngày 18/3/2024.
Giá nhôm kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME phiên này tăng 0,2% lên 2.307 USD/tấn.
Tính chung cả tuần, cả 2 kim loại này đều tăng.
Giá đồng kỳ hạn tương lai trên sàn Comex của Mỹ phiên thứ Sáu giảm 1,2% xuống 4,01 USD/lb.
Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa tại WisdomTree, cho biết: “Đây là một tháng rất mạnh mẽ và sự sụt giảm là không thể tránh khỏi, đặc biệt là vào những ngày đồng đô la mạnh lên”.
Chỉ số đồng USD tăng, 1 tuần sau khi ngân hàng trung ương công bố chính sách, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng USD trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác.
Shah cho biết sau khi giảm hoặc tăng giá ngắn hạn, đồng có thể sẽ tăng thêm, đặc biệt là khi các ngân hàng trung ương thực sự bắt đầu cắt giảm lãi suất.
Ông nói: “Tôi nghĩ các yếu tố cơ bản vẫn vững chắc, đặc biệt là sau khi việc cắt giảm hoạt động của các nhà máy luyện kim ở Trung Quốc bắt đầu có tác động đến nguồn cung kim loại”.
“Tôi kỳ vọng giá sẽ tăng trở lại trên 9.000 USD và có thể đạt ngưỡng 10.000 USD trong vài tháng nữa”, ông Shah cho biết.
Lần tăng giá mới nhất được thúc đẩy bởi thông tin đưa ra hồi tuần trước rằng các nhà máy luyện đồng lớn của Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận giảm công suất hoạt động ở một số nhà máy thua lỗ.
Tuy nhiên, công ty nghiên cứu Antaike hôm thứ Sáu cho biết sản lượng đồng tinh luyện hàng năm của Trung Quốc sẽ tăng hơn 3% trong năm nay bất chấp thỏa thuận với nhà máy luyện kim vì tổng công suất của nhà máy luyện kim đã tăng lên.
Đối với những kim loại cơ bản khác, trong phiên thứ Sáu, giá niken giảm 2,2% xuống 17.150 USD, kẽm giảm 1,6% xuống 2.485 USD, thiếc mất 0,6% xuống 27.705 USD và chì CMPB3 giảm 0,6% xuống 2.039 USD.
Tính chung cả tuần, niken và chì là những kim loại hoạt động kém nhất trong số các kim loại cơ bản trên sàn LME, với niken giảm gần 5% và chì giảm 4%.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng trong phiên thứ Sáu, tính chung cả tuần cũng tăng do nhu cầu tại nước tiêu thụ sắt thép hàng đầu thế giới – Trung Quốc – tăng, trong bối cảnh tiêu thụ thép có dấu hiệu cải thiện.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,5% lên 844 CNY (116,79 USD)/tấn; tính chung cả tuần, giá tăng 6,1%.
Tuy nhiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 1,07% xuống 108,6 USD/tấn, chịu áp lực giảm bởi đồng USD tăng mạnh.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,7%, thép cuộn cán nóng tăng 0,53%, thép cuộn thay đổi nhẹ, trong khi thép không gỉ giảm 0,18%.
Các nhà phân tích tại ANZ cho biết: “Thị trường quặng sắt sẽ tương đối cân bằng và giữ giá không giảm nhiều so với mức hiện tại trong bối cảnh tăng trưởng nguồn cung thấp và nhu cầu từ các lĩnh vực khác bù đắp cho sự sụt giảm của lĩnh vực bất động sản”.
Nông sản: Giá cà phê tăng trong tuần, cao su và đường giảm
Giá đậu tương Mỹ phiên thứ Sáu giảm hơn 1% xuống dưới 12 USD/bushel do hoạt động bán ra chốt lời sau khi giá tăng lên mức cao nhất gần 2 tháng. Giá lúa mì phiên nầy cũng tăng, trong khi ngô giảm trong bối cảnh giao dịch biến động.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 19-1/2 US cent xuống 11,92-1/2 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 1-1/2 US cent xuống 4,39-1/4 USD/bushel, trong khi giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 8 US cent lên 5,54-3/4 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngũ cốc chỉ biến động nhẹ.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE giảm 0,21 US cent tương đương 1% xuống 21,85 US cent/lb; tính chung cả tuần, giá giảm 1,2%. Đường trắng kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London giảm 0,2% xuống 638,9 USD/tấn.
Lượng mưa dự kiến ở Trung Nam Brazil trong vài ngày cuối tháng có thể trì hoãn việc bắt đầu thu hoạch mía niên vụ 2024/25.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London giảm 27 USD, tương đương 0,8%, xuống 3.358 USD/tấn; tính chung cả tuần giá tăng 2%; cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE giảm 0,5% xuống 1,8485 USD/lb; tính chung cả tuần, giá tăng 1%.
Nguồn cung vẫn khan hiếm ở nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam, nhưng việc bắt đầu thu hoạch cà phê Conillon (Robusta) ở Brazil vào tháng tới sẽ giúp làm tăng nguồn cung.
Chủ tịch Cooxupe, hợp tác xã cà phê lớn nhất thế giới và là nhà xuất khẩu hàng đầu của Brazil, cho biết, năm 2024, những nông dân liên kết sẽ sản xuất một vụ mùa tương tự hoặc lớn hơn một chút so với năm ngoái.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm 6% trong phiên cuối tuần, phiên giảm mạnh nhất trong hơn 3 năm, sau đợt tăng giá mạnh vào tuần trước, trong khi giá dầu thô giảm và việc giảm bớt lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung cũng gây áp lực giá.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 21,5 JPY tương đương 6,16% xuống 327,8 JPY (2,16 USD)/kg – phiên giảm mạnh nhất kể từ ngày 23/12/2020. Tính chung cả tuần, giá giảm 6,87%, sau khi tăng 12,46% trong tuần trước đó.
Cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 695 CNY, tương đương 4,57% xuống 14.510 CNY (2.007,89 USD)/tấ; cao su kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 3,45% xuống 162,3 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 15/3
|
Giá 22/3
|
22/3 so với 21/3
|
22/3 so với 21/3 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,31
|
81,10
|
+0,47
|
+0,58%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,58
|
85,89
|
+0,46
|
+0,54%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
271,84
|
273,96
|
-0,02
|
-0,01%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,73
|
1,66
|
0,00
|
-0,06%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
274,61
|
266,39
|
+1,05
|
+0,40%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.155,80
|
2.194,90
|
+13,30
|
+0,61%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.152,61
|
2.173,00
|
+7,56
|
+0,35%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
25,30
|
24,92
|
+0,07
|
+0,29%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
935,30
|
901,93
|
+3,58
|
+0,40%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
412,50
|
402,40
|
+1,65
|
+0,41%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.072,00
|
8.866,50
|
-84,00
|
-0,94%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.274,50
|
2.309,00
|
+7,50
|
+0,33%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.561,00
|
2.484,00
|
-40,50
|
-1,60%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
28.674,00
|
27.727,00
|
-145,00
|
-0,52%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
439,50
|
438,50
|
-0,75
|
-0,17%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
534,25
|
557,50
|
+2,75
|
+0,50%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
364,75
|
360,25
|
+2,00
|
+0,56%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
17,83
|
17,36
|
+0,02
|
+0,12%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.203,25
|
1.193,00
|
+0,50
|
+0,04%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
335,80
|
338,70
|
-0,40
|
-0,12%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
49,66
|
47,66
|
+0,02
|
+0,04%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
632,10
|
633,30
|
-1,20
|
-0,19%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
8.018,00
|
8.939,00
|
+380,00
|
+4,44%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
182,95
|
184,85
|
-0,85
|
-0,46%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
22,12
|
21,85
|
-0,21
|
-0,95%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
370,45
|
367,70
|
+9,30
|
+2,59%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
95,26
|
91,83
|
+0,30
|
+0,33%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
177,50
|
165,20
|
-1,20
|
-0,72%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|