menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG phiên 17/11: Giá giảm

11:00 18/11/2022

Phiên giao dịch vừa qua, giá dầu, vàng, đồng đều đi xuống, cà phê chạm mức thấp nhất trong vòng 16 tháng.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 3% do số lượng ca nhiễm Covid-19 tại Trung Quốc tăng và lãi suất của Mỹ có thể tăng cao hơn so với dự kiến, gây áp lực lên nhu cầu dầu.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent giảm 3,08 USD hay 3,3% xuống 89,78 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 3,95 USD hay 4,6% xuống 81,64 USD/thùng.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang St. Louis, James Bullard, cho biết quy tắc chính sách tiền tệ cơ bản sẽ yếu cầu lãi suất tăng lên ít nhất khoảng 5%, trong khi các giả định chặt chẽ hơn sẽ cho thấy lãi suất cần tăng lên trên 7%.
Đồng USD cũng tăng khi nhà đầu tư đánh giá dữ liệu kinh tế Mỹ. Đồng USD mạnh hơn khiến dầu trở nên đắt đỏ hơn đối với người nắm giữ những đồng tiền khác.
Trung Quốc đã báo cáo số ca mắc COVID-19 hàng ngày gia tăng và các nhà máy lọc dầu Trung Quốc đã yêu cầu giảm khối lượng dầu thô của Saudi Arabia trong tháng 12, đồng thời cũng giảm mua dầu thô Nga.
Trong khi số ca mắc COVID-19 tại Trung Quốc thấp hơn so với các quốc gia khác, song quốc gia nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế gới này vẫn duy trì các chính sách nghiêm ngặt để ngăn chặn các đợt bùng phát sớm, qua đó làm giảm nhu cầu nhiên liệu.
Craig Erlam, chuyên gia phân tích thị trường cấp cao tại công ty dịch vụ tài chính OANDA (Mỹ), nhận định thật may là những lo ngại liên quan đến vụ tên lửa rơi vào Ba Lan đã giảm bớt và tình hình đã giảm leo thang. Trung Quốc vẫn là một rủi ro giảm giá đối với dầu trong ngắn hạn”.
Dầu nhận được hỗ trợ từ số liệu chính thức cho thấy dự trữ dầu thô tại Mỹ giảm 5 triệu thùng trong tuần trước, cao hơn rất nhiều so với dự báo.
Nguồn cũng cũng đang khan hiếm trong tháng 11 khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, thực hiện các biện pháp kiểm soát sản lượng mới nhất để hỗ trợ thị trường.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm gần 1% do USD phục hồi, trong khi những bình luận gần đây từ các quan chức Fed báo hiệu tiếp tục chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.760,43 USD/ounce sau khi có lúc giảm xuống 1.753,6 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,7% xuống 1.763 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD đã tăng 0,3%, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn cho những người nắm giữ đồng tiền tệ khác và lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cũng cao hơn trong phiên này.
Nền kinh tế Mỹ cho thấy một số dấu hiệu như số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới của nước này đã giảm trong tuần trước, khiến thị trường lao động trở nên thắt chặt bất chấp việc Fed tăng lãi suất mạnh mẽ để hạ nhiệt nhu cầu trong nền kinh tế.
Trong khi thành viên hội đồng thống đốc Fed Christopher Waller ngày 16/11 cho biết ông sẽ “thoải mái hơn” với các đợt tăng lãi suất nhỏ hơn trong tương lai, thì Chủ tịch Fed chi nhánh St. Louis James Bullard tuyên bố Fed cần tiếp tục tăng lãi suất thêm ít nhất một điểm phần trăm nữa.
Lãi suất tăng có xu hướng làm giảm sức hấp dẫn của vàng vì nó không mang lại lợi nhuận.
Giá vàng đã chạm mức cao của ba tháng là 1.786,35 USD/ounce hôm 15/11 do lo ngại cuộc khủng khoảng Ukraine gia tăng căng thẳng, tuy nhiên giá kim loại quý này đã giảm xuống khi căng thẳng được giải tỏa.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,5% xuống 20,93 USD/ounce. Giá bạch kim cũng giảm 2,5% xuống 980,61 USD/ounce, còn giá palladium giảm 3,2% xuống 2.006,07 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tiếp tục giảm bởi USD mạnh lên và lo ngại về nhu cầu sau khi số ca nhiễm Covid-19 tăng ở Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 2% xuống 8.125 USD/tấn sau khi giảm 1% trong phiên liền trước; giá đồng trên sàn Comex của Mỹ giảm 2,3% xuống 3,69 USD/lb.
Số ca nhiễm Covid-19 tăng vọt làm dấy lên lo ngại mới về việc phong tỏa ở Trung Quốc khiến chứng khoán giảm.
Giá đồng đã chạm mức cao nhất trong gần 5 tháng trong ngày 14/11 do tin tức Trung Quốc nới lỏng một số hạn chế về Covid-19 và đưa ra các bước hỗ trợ lĩnh vực bất động sản đang khó khăn của nước này.
Cũng gây sức ép lên thị trường là chỉ số USD tăng sau khi doanh số bán lẻ của Mỹ mạnh làm dấy lên nghi ngờ rằng Fed có thể dừng việc tăng lãi suất mạnh mẽ của mình.
Chênh lệch giữa đồng giao ngay và hợp đồng giao sau 3 tháng tiếp tục tăng thành trừ lùi 35 USD/tấn, cao nhất trong 8 tháng.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nicken tiếp tục giảm, giảm thêm 8,5% xuống còn 25.190 USD/tấn, sau khi giảm 9% vào thứ Tư trong giao dịch không ổn định và thưa thớt khiến sàn giao dịch tăng cường giám sát; giá nhôm giảm 0,9% xuống 2.391 USD/tấn, kẽm giảm 1,8% xuống 2.998 USD, chì giảm 1,4% xuống 2.140 USD và thiếc giảm 5% xuống 22.450 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng sau một phiên giao dịch đầy biến động khi các nhà đầu tư đặt cược rằng Trung Quốc sẽ tung thêm nhiều biện pháp hỗ trợ nền kinh tế đang gặp khó khăn của mình.
Trung Quốc sẽ đẩy mạnh việc thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, ổn định việc làm và giá cả trong nỗ lực củng cố và cải thiện đà đi lên của nền kinh tế.
Quặng sắt giao tháng 1/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa tăng 1,7% lên 740 CNY (103,85 USD)/tấn sau khi biến động tăng và giảm trong suốt phiên này. Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 12 tăng 0,2% lên 97,2 USD/tấn.
Quặng sắt đã có giai đoạn phục hồi mạnh sau đợt bán tháo hồi tháng 10, được thúc đẩy bởi sự lạc quan rằng các hành động chính sách gần đây ở Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với thép và nguyên liệu thô của họ. Trung Quốc đã nới lỏng một số hạn chế về Covid-19 và công bố các biện pháp hỗ trợ lĩnh vực bất động sản ốm yếu.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất 2,5 tháng sau khi Liên Hợp Quốc công bố thỏa thuận mở rộng hành lang ngũ cốc cho xuất khẩu từ Ukraine. Lúa mì đỏ mềm vụ đông, kỳ hạn tháng 12, giảm 10-3/4 cent ở mức 8,06-3/4 USD/bushel sau khi giảm xuống 7,93-3/4 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 1 tháng 9; lúa mì đỏ cứng vụ đông kỳ hạn tháng 12 kết thúc phiên giảm 17-1/2 cent xuống 9,38 USD/bushel, và lúa mì vụ xuân giao tháng 12 giảm 11-3/4 cent xuống còn 9,53-3/4 USD.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 0,54 US cent hay 2,7% xuống 19,73 US cent/lb sau khi tăng lên mức đỉnh 7 tháng tại 20,44 US cent trong phiên liền trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 11,2 USD hay 2,1% xuống 533,4 USD/tấn.
Các đại lý cho biết về mặt kỹ thuật thị trường đã mua quá nhiều sau khi tăng mạnh gần đây, vì thế sự sụt giảm không nằm ngoài dự đoán. Giá dầu yếu và USD tăng bổ sung thêm áp lực cho đường.
Các nhà máy đường của Ấn Độ đã sản xuất 2 triệu tấn đường trong niên vụ này bắt đầu từ 1/10, không đổi so với một năm trước, theo Hiệp hội các nhà máy đường Ấn Độ.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 2,05 US cent hay 1,3% xuống 1,5635 USD/lb, trước đó giá đã chạm mức thấp nhất 16 tháng tại 1,5405 USD; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 26 USD hay 1,5% lên 1.818 USD/tấn.
Fitch Solutions cho biết thị trường có thể giảm hơn nữa trong ngắn hạn do nhu cầu toàn cầu yếu và nguồn cung cải thiện ở Brazil, nước sản xuất hàng đầu.
Đồng real của Brazil và đồng peso của Colombia suy yếu hiện nay cũng tiếp tục khuyến khích doanh số xuất khẩu.
Giá cà phê tại Việt Nam giảm theo các manh mối trên thế giới và nguồn cung vụ thu hoạch mới, trong khi mức cộng tại Indonesia tiếp tục tăng do nguồn cung thắt chặt.
Nông dân tại Tây Nguyên đã bán cà phê ở mức 38.900 – 40.100 đồng (1,57 – 1,62 USD)/kg, giảm từ mức 39.700 – 41.300 đồng một tuần trước.
Các thương nhân đã chào bán cà phê robusta loại 2 với 5% hạt đen và vỡ ở mức trừ lùi 60 – 70 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE London, không đổi so với một tuần trước.
Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatran được chào bánở mức cộng 50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2023, tăng từ mức cộng 40 USD trong tuần trước, do nguồn cung cà phê yếu.
Giá cao su Nhật Bản tăng theo hướng tăng tại thị trường Thượng Hải, sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc tái khẳng định hỗ trợ chính sách mạnh hơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mặc dù chứng khoán trong nước yếu hơn đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1 JPY hay 0,5% lên 217,9 JPY (1,56 USD)/kg. Tại Thượng Hải giá cao su giao tháng 1/2023 tăng 180 CNY lên 12.810 CNY (1.797 USD)/tấn.
Những tháng qua đã chứng kiến lo ngại ngày càng tăng về nhu cầu cao su đang chậm lại tại Trung Quốc do nước này vật lộn với khủng hoảng bất động sản, các đợt nắng nóng làm gián đoạn sản xuất và việc phong tỏa kéo dài ảnh hưởng đến hoạt động công nghiệp và tiêu dùng.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,45

+0,81

+0,99%

Dầu Brent

USD/thùng

90,37

+0,59

+0,66%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

69.840,00

-380,00

-0,54%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,34

-0,03

-0,49%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

246,10

+0,63

+0,26%

Dầu đốt

US cent/gallon

353,55

+1,07

+0,30%

Dầu khí

USD/tấn

963,25

+7,25

+0,76%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

80.500,00

-1.500,00

-1,83%

Vàng New York

USD/ounce

1.764,40

+1,40

+0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.912,00

+14,00

+0,18%

Bạc New York

USD/ounce

21,33

+0,16

+0,76%

Bạc TOCOM

JPY/g

93,50

+0,30

+0,32%

Bạch kim

USD/ounce

989,38

+4,13

+0,42%

Palađi

USD/ounce

2.021,97

+11,27

+0,56%

Đồng New York

US cent/lb

369,60

+0,20

+0,05%

Đồng LME

USD/tấn

8.110,00

-183,50

-2,21%

Nhôm LME

USD/tấn

2.391,00

-21,00

-0,87%

Kẽm LME

USD/tấn

2.987,00

-66,50

-2,18%

Thiếc LME

USD/tấn

22.584,00

-1.051,00

-4,45%

Ngô

US cent/bushel

671,75

+2,75

+0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

830,00

+5,00

+0,61%

Lúa mạch

US cent/bushel

395,50

+1,00

+0,25%

Gạo thô

USD/cwt

17,77

+0,05

+0,25%

Đậu tương

US cent/bushel

1.422,75

+5,75

+0,41%

Khô đậu tương

USD/tấn

403,60

+1,10

+0,27%

Dầu đậu tương

US cent/lb

70,48

+0,26

+0,37%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

842,20

-7,50

-0,88%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.447,00

-55,00

-2,20%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

156,35

-2,05

-1,29%

Đường thô

US cent/lb

19,73

-0,54

-2,66%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

201,00

-1,65

-0,81%

Bông

US cent/lb

84,57

-0,71

-0,83%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

440,40

+10,40

+2,42%

Cao su TOCOM

JPY/kg

129,70

-0,80

-0,61%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa