Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 2 USD/thùng do lo ngại về nhu cầu nhiên liệu ngày càng gia tăng khi dịch Covid-19 bùng phát tại nước nhập khẩu dầu thô hàng đầu – Trung Quốc và những lo ngại về kết quả cuộc bầu cử giữa kỳ tại Mỹ.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 2,56 USD tương đương 2,6% xuống 95,36 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,88 USD tương đương 3,14% xuống 88,91 USD/thùng.
Giá dầu giảm khi Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho biết, tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 4/11/2022 tăng 5,6 triệu thùng, cao hơn so với tăng 1,1 triệu thùng dự kiến trước đó.
Trước đó, cả loại dầu tiêu chuẩn phiên 7/11 đều đạt mức cao nhất kể từ tháng Tám do các báo cáo rằng giới lãnh đạo ở Trung Quốc đang cân nhắc việc rút bớt các hạn chế phòng dịch COVID-19 nghiêm ngặt của nước này. Nhưng việc số ca mắc mới tăng lên ở Quảng Châu và một số thành phố khác của Trung Quốc đã làm mờ đi triển vọng trên.
Bên cạnh đó, ông Bob Yawger, người phụ trách mảng hợp đồng năng lượng tương lai của ngân hàng Mizuho (Nhật Bản) cho biết thị trường đang có mức độ hoài nghi nhất định xung quanh cuộc bầu cử Mỹ. Đa phần nhà đầu tư đang thận trọng chờ xem kết quả tại quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới này.
Ông Dennis Kissler, Phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch của ngân hàng BOK Financial (Mỹ) cũng lưu ý nguồn cung xăng và dầu diesel vẫn ở mức thấp “một cách khó chịu”. Yếu tố này đã giúp hạn chế mức giảm giá của dầu thô khi hầu hết nước Mỹ đang chuẩn bị đón thời tiết lạnh giá hơn.
Những người tham gia thị trường lo ngại lạm phát tăng cao và lãi suất tăng có thể dấy lên 1 cuộc suy thoái toàn cầu. Trong khi đó, EIA cắt giảm triển vọng nhu cầu năng lượng năm 2023 và dự báo sản lượng dầu thô của Mỹ trong năm tới sẽ thấp hơn 21% so với dự kiến trước đó.
Đáng chú ý, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho hay các kho dự trữ nhiên liệu chưng cất của nước này đã kết thúc tháng 10 ở mức thấp nhất trong bất kỳ tháng 10 nào kể từ năm 1951. EIA cũng cắt giảm triển vọng nhu cầu năng lượng của Mỹ cho năm 2023, đồng thời dự báo sản lượng của nước này trong năm tới sẽ thấp hơn 21% so với ước tính trước đó.
Càng khiến thị trường bất an là nhà sản xuất dầu Diamondback Energy cũng cảnh báo rằng ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ sẽ tiếp tục gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất với tốc độ hiện tại, khi chi phí của các giếng đá phiến mới sẽ tăng lên.
Bên cạnh đó, thị trường cũng còn nhiều lo lắng lạm phát cao và lãi suất tăng có thể châm ngòi cho một cuộc suy thoái toàn cầu. Giới giao dịch sẽ chú tâm theo dõi báo cáo giá tiêu dùng của Mỹ vào thứ Năm (10/11) để tìm kiếm thêm thông tin.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 2% vượt ngưỡng 1.700 USD/ounce sau sự sụt giảm của đồng USD và lợi suất trái phiếu, trong khi thị trường vẫn tập trung vào số liệu lạm phát của Mỹ vào cuối tuần này.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 2,4% lên 1.714,23 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn New York tăng 2,1% lên 1.716 USD/ounce.
Trước đó cùng phiên, giá vàng đã có lúc đạt ngưỡng 1.716,82 USD/ounce - cao nhất kể từ ngày 6/10 và đã tăng hơn 100 USD/ounce kể từ mức thấp nhất trong hơn hai tháng là 1.615,59 USD/ounce ghi nhận vào tuần trước.
Ông Tai Wong, một nhà giao dịch cấp cao tại công ty môi giới đầu tư Heraeus Precious Metals (Mỹ) nhận định thị trường có vẻ đang trên đà mua vào vàng khi đồng USD yếu đi, chủ yếu do đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ giảm mức tăng lãi suất xuống 50 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 12 .
Chỉ số USD giảm 0,5% xuống mức thấp nhất gần hai tuần so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền nước ngoài.
Nhà phân tích Craig Erlam của công ty môi giới tài chính OANDA (Mỹ) cho biết vàng đã vượt qua cả ngưỡng 1.680 USD/ounce và sau đó là 1.700 USD/ounce. Việc phá vỡ các mức kỹ thuật đó có thể tạo ra một sự thúc đẩy bổ sung cho kim loại quý này.
Báo cáo về chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ sẽ được công bố vào thứ Năm (10/11), với các nhà kinh tế dự báo mức lạm phát cốt lõi sẽ giảm cả theo tháng lẫn theo năm lần lượt xuống 0,5% và 6,5%.
Ông David Meger, người phụ trách mảng giao dịch kim loại tại công ty dịch vụ tài chính High Ridge Futures (Mỹ) cho biết nếu lạm phát tiếp tục giảm từng bước, đó sẽ là điềm báo tốt cho các thị trường nói chung với kỳ vọng Fed sẽ tăng lãi suất ở tốc độ thấp hơn trong tương lai.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng gần 3% lên 21,39 USD/ounce và chạm mức cao nhất kể từ cuối tháng Sáu; bạch kim cũng tăng 2,1% lên 999,13 USD/ounce.
Trên thịt trường kim loại công nghiệp, giá đồng trên sàn London tăng 2,6% lên 8.122,5 USD/tấn, sau khi giảm 2,2% trong phiên trước đó.
Chỉ số đồng USD giảm cũng hỗ trợ giá kim loại công nghiệp tăng, khiến kim loại định giá bằng đồng bạc xanh rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Tồn trữ đồng tại London giảm xuống mức thấp nhất hơn 7 tháng, giảm 43% trong tháng qua. Đồng thời, tồn trữ đồng tại Thượng Hải chạm 84.164 tấn – không xa so với mức thấp kỷ lục (72.159 tấn) trong tháng 10/2022.
Tại Trung Quốc, dự trữ tại sàn Thượng Hải và kho ngoại quan cộng lại ở mức 84.164 tấn, không xa so với mức thấp kỷ lục 72.159 tấn đạt được hồi tháng 10.
Về những kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 1,7% lên 2,377 USD/tấn, kẽm tăng 1,6% lên 2,932 USD, niken tăng 2,4% lên 23,965 USD, thiếc tăng 4,5% lên 19,795 USD và chì tăng 0,4% lên 2,045,50 USD.
Giá quặng sắt tại Đại Liên tăng lên mức cao nhất 2 tuần, được hỗ trợ bởi kỳ vọng Trung Quốc sẽ nới lỏng các hạn chế Covid-19, bất chấp lo ngại các trường hợp nhiễm virus corona mới tại một số thành phố của Trung Quốc tăng và nhu cầu thép suy yếu.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên tăng 2,6% lên 680 CNY (93,8 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 24/10/2022 (683 CNY/tấn); quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 2,1% lên 87,95 USD/tấn, tăng phiên thứ 6 liên tiếp. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,6%, thép cuộn cán nóng tăng 0,3%, thép cuộn tăng 0,6%, trong khi thép không gỉ giảm 1,3%.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc và đậu tương tại Mỹ giảm, trước công bố dự báo về vụ thu hoạch tại Mỹ và các thương nhân đánh giá về nhu cầu tại Trung Quốc – nước nhập khẩu đậu tương hàng đầu thế giới.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 17-1/4 US cent xuống 8,28-1/2 USD/bushel. Giá ngô giảm 9 US cent xuống 6,66-3/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 29/9/2022. Giá đậu tương giảm 3-1/4 US cent xuống 14,47 USD/bushel, sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 22/9/2022 trong phiên trước đó.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,8% lên 18,82 US cent/lb; giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn London tăng 0,6% lên 533,9 USD/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE chạm mức thấp mới 15 tháng, do lo ngại nhu cầu yếu đặc biệt tại châu Âu, trong khi tồn trữ tăng.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm 1,8% xuống 1,6325 USD/lb, trong phiên có lúc chạm 1,618 USD/lb – thấp nhất 15 tháng; giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn London giảm 0,9% xuống 1.834 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng theo xu hướng giá cao su tại Thượng Hải tăng và thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh, cùng với đó là thị trường lạc quan do kỳ vọng kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại bất chấp số trường hợp nhiễm Covid-19 gần đây tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Osaka tăng 5 JPY tương đương 2,3% lên 219,5 JPY (1,5 USD)/kg; giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 310 CNY lên 12.590 CNY (1.738 USD)/tấn; giá cao su kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 1,7% lên 128,8 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
88,97
|
+0,06
|
+0,07%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
95,46
|
+0,10
|
+0,10%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
75.240,00
|
-1.900,00
|
-2,46%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
6,28
|
+0,14
|
+2,31%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
263,15
|
-0,52
|
-0,20%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
378,24
|
+1,17
|
+0,31%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.067,25
|
-29,25
|
-2,67%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.712,50
|
-3,50
|
-0,20%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.975,00
|
+129,00
|
+1,64%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,52
|
+0,01
|
+0,06%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
97,00
|
+2,80
|
+2,97%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.001,51
|
-0,62
|
-0,06%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.922,44
|
-2,77
|
-0,14%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
365,90
|
-2,35
|
-0,64%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.115,50
|
+201,00
|
+2,54%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.372,00
|
+35,00
|
+1,50%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.931,00
|
+45,00
|
+1,56%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.659,00
|
+720,00
|
+3,80%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
667,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
830,25
|
+2,50
|
+0,30%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
387,25
|
+6,50
|
+1,71%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,86
|
-0,06
|
-0,36%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.447,25
|
+0,75
|
+0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
419,20
|
-0,10
|
-0,02%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
75,07
|
+0,04
|
+0,05%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
881,70
|
-0,40
|
-0,05%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.524,00
|
+38,00
|
+1,53%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
164,15
|
-1,90
|
-1,14%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,00
|
+0,32
|
+1,71%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
211,20
|
-4,70
|
-2,18%
|
Bông
|
US cent/lb
|
87,68
|
+0,19
|
+0,22%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
432,50
|
-12,20
|
-2,74%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
128,50
|
+0,10
|
+0,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)