menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG tuần tới 11/11: Giá dầu và ngũ cốc giảm, kim loại tăng

08:00 14/11/2022

Thị trường hàng hóa thế giới vừa trải qua một tuần biến động mạnh do USD biến động và Trung Quốc nới lỏng các biện pháp chống Covid-19.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh
Giá dầu tăng trong phiên cuối tuần sau khi các cơ quan y tế của Trung Quốc nới lỏng một số hạn chế Covid-19 của nước này, làm gia tăng hy vọng hoạt động kinh tế và nhu cầu tại nước nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới được cải thiện. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá giảm mạnh.
Theo đó, kết thúc phiên 11/11, dầu thô Brent tăng 2,32 USD tương đương 1,1% lên 95,99 USD/thùng, tính chung cả tuần giá giảm 2,6%.
Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,49 USD tương đương 2,9% lên 88,96 USD/thùng, sau khi tăng 0,8% trong phiên trước đó. Tính chung cả tuần, giá dầu WTI giảm gần 4%.
Ngoài ra, đồng USD suy yếu cũng hỗ trợ giá dầu, khiến dầu mua bằng đồng USD rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Các biện pháp hạn chế Covid-19 của Trung Quốc dần được nới lỏng, bao gồm rút ngắn thời gian cách ly đối với những người tiếp xúc gần với ca bệnh và du khách nội địa xuống hai ngày, cũng như loại bỏ hình phạt đối với các hãng hàng không vì đã đưa những hành khách bị nhiễm bệnh vào.
Giá dầu trong tuần qua giảm do lượng tồn trữ dầu của Mỹ tăng và lo ngại kéo dài về nhu cầu nhiên liệu giới hạn ở Trung Quốc, nhưng mức tăng vào cuối tuần đã hạn chế mức giảm trong tuần. Jim Ritterbusch, chủ tịch Associates LLC ở Galena ở Illinois cho biết: “Phản ứng thay đổi của Trung Quốc đối với việc số ca nhiễm COVID-19 cao đã làm tăng thêm sự biến động giá của thị trường dầu mỏ và, nếu chính sách mới này của Trung Quốc tiếp diễn thì giá tăng có thể bù đắp toàn bộ mức giảm trong tục, thì tổ hợp năng lượng có thể sẵn sàng xóa bỏ hầu hết sự sụt giảm trong tuần qua”.
Đồng đô la Mỹ yếu đi cũng hỗ trợ giá dầu vì làm cho hàng hóa này rẻ hơn đối với những người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Giá cũng tăng vào thứ Sáu sau khi lạm phát của Mỹ thấp dự kiến củng cố hy vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất, thúc đẩy cơ hội hạ cánh mềm cho nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman cho biết Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất lớn ngoài khối (nhóm OPEC+) sẽ vẫn thận trọng về sản lượng dầu. Vị hoàng tử còn lưu ý rằng các thành viên đã nhìn thấy "những bất ổn" trong nền kinh tế toàn cầu trước cuộc họp tiếp theo của khối vào tháng 12.
OPEC+ đã đồng ý cắt giảm sản lượng mạnh tay khoảng 2 triệu thùng/ngày tại cuộc họp tháng trước. Khối này sẽ nhóm họp lại vào ngày 4/12 để đánh giá và đưa ra chính sách của mình.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2020
Giá vàng giao ngay phiên kết thúc tuần tăng 0,7% lên 1.766,39 USD/ounce, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 18 tháng 8, trong khi vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 0,9% lên 1.769,4 USD.
Dữ liệu lạm phát mới nhất của Mỹ đã khiến đồng USD giảm mạnh, với mức giảm chỉ trong 2 ngày cuối tuần ở mức nhiều nhất trong gần 14 năm, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Với mức tăng 5% trong cả tuần, tuần này là tuần rực rỡ nhất của mặt hàng vàng trong 2,5 năm qua. Đáng chú ý, giá vàng đang duy trì vững chắc trên ngưỡng 1.750 USD/ounce.
Bob Haberkorn, chuyên gia thị trường cấp cao của RJO Futures cho biết: "Chúng tôi đang thấy giá vàng theo dõi qua dữ liệu CPI, đồng đô la yếu đi và khả năng Fed sẽ thực hiện một đợt tăng lãi suất nửa điểm so với mức tăng 75 điểm cơ bản".
Giá tiêu dùng của Mỹ tăng ít hơn dự kiến trong tháng 10 và dữ liệu cho thấy lạm phát hàng năm dưới 8% lần đầu tiên trong tám tháng.
Dữ liệu lạm phát đã khiến đồng đô la Mỹ giảm mạnh, vốn là nguyên nhân dẫn đến mức giảm hai ngày lớn nhất trong gần 14 năm, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác.
Thị trường hiện đang định giá 71,5% khả năng Fed tăng lãi suất 50 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 12, tăng so với tỷ lệ 50/50 một tuần trước đây.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống còn 21,6 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần tăng tuần thứ 2 liên tiếp; bạch kim giảm 0,4% xuống 1.027,62 USD và hướng tới mức tăng hàng tuần thứ tư liên tiếp khi chạm mức cao kể từ tháng 3 trước đó; palladium tăng 2,8% lên $ 2,019 và tính chung cả tuần cũng tăng.
Kim loại công nghiệp: Giá tăng mạnh
Giá kim loại cơ bản tăng trong phiên cuối tuần sau khi Trung Quốc nới lỏng một số quy định chống COVID-19, làm tăng hy vọng nước này sẽ từ bỏ chính sách zero-COVID.
Giá đồng trên sàn London tăng 2,7% lên 8.495 USD/tấn, sau khi đạt 8.555 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 6/2022.
Tính từ đầu tháng đến nay, giá đồng tăng 14% do kỳ vọng nhu cầu Trung Quốc phục hồi, song vẫn giảm hơn 20% kể từ mức cao đỉnh điểm trong tháng 3/2022 do hoạt động kinh tế suy yếu.
Trong khi đó, giá nhôm tăng 6% lên 2.467 USD/tấn, mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ năm 2009; kẽm tăng 4,9% lên 3.024 USD, niken tăng 5,4% lên 27.360 USD, chì tăng 2,7% lên 2.155 USD và thiếc tăng 4,4% lên 21.210 USD.
Tính chung cả tuần, giá kim loại cơ bản tăng mạnh.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) tăng khi Trung Quốc nới lỏng một số quy tắc về Covid-19, sau khi các quan chức nước này nhấn mạnh sự cần thiết phải giảm thiểu tác động của việc ngăn chặn dịch bùng phát đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên tăng 5% lên 708,5 CNY (99,86 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 12/10/2022(720 CNY/tấn); quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 8,2% lên 93,6 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 2,5%, thép cuộn cán nóng tăng 2,1%, thép cuộn và thép không gỉ đều tăng 3,3%.
Nông sản: Giá ngũ cốc giảm
Giá ngũ cốc Mỹ tăng trong phiên cuối tuần, được củng cố bởi thị trường hàng hóa và chứng khoán tăng mạnh, cũng như kỳ vọng việc nới lỏng các hạn chế Covid-19 của Trung Quốc có thể thúc đẩy nhu cầu.
Trên sàn Chicago phiên cuối tuần, giá lúa mì tăng 10-1/4 US cent lên 8,13-3/4 USD/bushel; giá ngô tăng 4-3/4 US cent lên 6,58 USD/bushel và giá đậu tương tăng 27 US cent lên 14,5 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá cả 3 loại giảm nhẹ.
Giá đậu tương tăng do giá dầu thô tăng trong bối cảnh dự báo thời tiết Mỹ lạnh giá và đồng USD giảm mạnh. Sự chú ý của thị trường vào cuối tuần là về hành lang xuất khẩu Ukraine khi các cuộc đàm phán đang diễn ra tại Geneva. Công ty nghiên cứu AgResource tại Chicago cho hay bất kỳ đợt tăng mạnh nào vào đầu tuần đều là cơ hội bán hàng.
Trung Quốc được cho là đã mua 5 chuyến hàng đậu tương của Mỹ cho tháng 1/2023 và 5 chuyến hàng đậu tương Brazil cho tháng 3/2023. Cũng có nguồn tin cho hay Trung Quốc đã đặt 2 chuyến hàng đậu tương của Argentina cho tháng 5/2023.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,23 US cent tương đương 1,2% lên 19,64 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 5 tháng (19,85 US cent/lb); đường trắng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn London tăng 11,4 USD tương đương 2,1% lên 566,5 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,4 US cent tương đương 0,2% lên 1,681 USD/lb, rời khỏi mức thấp nhất 15 tháng (1,6045 USD/lb) trong phiên trước đó.
Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn London tăng 9 USD tương đương 0,5% lên 1.836 USD/tấn, hồi phục từ mức thấp nhất 15 tháng (1.788 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Giá cà phê trên hai sàn tiếp nối xu hướng tăng do tác động của báo cáo về Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2022 của Mỹ lên thị trường tài chính và hàng hóa thế giới nói chung, cùng với thông tin thị trường Trung Quốc mở cửa trở lại đã góp phần kích hoạt đà tăng giá do kỳ vọng vào nhu cầu hàng hóa tăng lên.
Bên cạnh đó, chỉ số đồng USD sụt giảm mạnh trong hai phiên liên tiếp cũng khuyến khích các Quỹ và nhà đầu cơ quay lại các thị trường để mua vào sau khi giá cà phê kỳ hạn giảm xuống đứng ở mức thấp.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải tăng và thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh, khi các hạn chế Covid-19 được nới lỏng, bất chấp các trường hợp nhiễm dịch tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – gia tăng, đã hỗ trợ thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Osaka tăng 0,9 JPY tương đương 0,4% lên 217 JPY (1,53 USD)/kg; tính chung cả tuần giá tăng hơn 1,6%. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 20 CNY lên 12.590 CNY (1.774 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 2,6% lên 127,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá 4/11

Giá 11/11

Giá 11/11 so với 10/11

Giá 11/11 so với 10/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

91,16

89,12

+0,16

+0,18%

Dầu Brent

USD/thùng

97,32

96,21

+0,22

+0,23%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

77.460,00

72.870,00

-540,00

-0,74%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,96

6,03

+0,15

+2,52%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

271,09

263,10

+2,14

+0,82%

Dầu đốt

US cent/gallon

386,85

361,63

+6,10

+1,72%

Dầu khí

USD/tấn

1.087,75

997,50

+9,75

+0,99%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

83.000,00

83.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.675,00

1.763,90

-5,50

-0,31%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.873,00

7.861,00

-129,00

-1,61%

Bạc New York

USD/ounce

20,54

21,60

-0,07

-0,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

92,60

94,00

-3,00

-3,09%

Bạch kim

USD/ounce

954,60

1.027,52

-5,55

-0,54%

Palađi

USD/ounce

1.872,15

2.026,23

-23,12

-1,13%

Đồng New York

US cent/lb

360,65

387,85

-3,50

-0,89%

Đồng LME

USD/tấn

8.099,00

8.492,50

+221,00

+2,67%

Nhôm LME

USD/tấn

2.355,50

2.463,50

+136,50

+5,87%

Kẽm LME

USD/tấn

2.874,00

3.024,50

+140,50

+4,87%

Thiếc LME

USD/tấn

18.872,00

21.315,00

+991,00

+4,88%

Ngô

US cent/bushel

677,25

660,25

-2,75

-0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

841,00

832,25

-3,00

-0,36%

Lúa mạch

US cent/bushel

385,50

391,50

+4,50

+1,16%

Gạo thô

USD/cwt

17,70

17,91

-0,07

-0,39%

Đậu tương

US cent/bushel

1.451,50

1.445,50

-4,50

-0,31%

Khô đậu tương

USD/tấn

418,00

403,80

+0,20

+0,05%

Dầu đậu tương

US cent/lb

76,58

74,31

-0,23

-0,31%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

895,20

660,25

-2,75

-0,41%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.430,00

2.518,00

-37,00

-1,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

171,65

168,10

+0,40

+0,24%

Đường thô

US cent/lb

18,71

19,64

+0,23

+1,18%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

212,90

203,30

-4,90

-2,35%

Bông

US cent/lb

86,93

85,86

-0,47

-0,54%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

438,10

430,60

-4,40

-1,01%

Cao su TOCOM

JPY/kg

124,90

130,00

+1,10

+0,85%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa