menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG tuần tới 8/7: Giá hầu hết giảm trong tuần

10:00 10/07/2022

Lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại đã khiến giá hầu hết các hàng hóa, từ dầu tới vàng, kim loại … đều giảm trong tuần qua.
 
Năng lượng: Giá dầu tăng 2% trong phiên cuối tuần nhưng tính chung cả tuần giảm
Giá dầu tăng 2% trong phiên giao dịch cuối tuần trong không khí giao dịch có nhiều bất ổn, song tính chung cả tuần giảm do các nhà đầu tư lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế khiến nhu cầu giảm, ngay cả khi nguồn cung nhiên liệu toàn cầu vẫn thắt chặt.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 2,37 USD, tương đương 2,3%, lên 107,02 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,06 USD, tương đương 2%, lên 104,79 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm 4,1%, dầu WTI giảm 3,4%. Trong tuần, ngày 4/7/2022 giá dầu Brent giảm 10,73 USD, là phiên giảm lần thứ 3 mạnh nhất kể từ năm 1988.
Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới đang tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, làm dấy lên lo ngại rằng chi phí đi vay tăng cao có thể kìm hãm tăng trưởng, trong khi đợt xét nghiệm COVID-19 hàng loạt ở Thượng Hải trong tuần này gây ra lo ngại về khả năng ngừng hoạt động cũng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu dầu.
Dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ cho thấy nền kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm hơn dự kiến trong tháng 6, một dấu hiệu cho thấy sức mạnh thị trường lao động bền bỉ khiến Cục Dự trữ Liên bang sẽ tăng lãi suất 75 điểm cơ bản nữa trong tháng này.
Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group cho biết: “Thị trường dầu mỏ đang xem báo cáo việc làm như một con dao hai lưỡi. "Số lượng việc làm là tích cực từ góc độ nhu cầu. Về mặt giảm, thị trường lo ngại rằng nếu thị trường việc làm mạnh, Fed có thể quyết liệt hơn với việc tăng lãi suất."
Các công ty năng lượng của Mỹ trong tuần này đã bổ sung thêm hai giàn khoan dầu, nâng tổng số lên 597, cao nhất kể từ tháng 3 năm 2020, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết.
Giá dầu tăng trong nửa đầu năm 2022, với dầu Brent lên gần mức cao kỷ lục (147 USD/thùng), sau cuộc xung đột Nga-Ukraine trong tháng 2/2022, làm gia tăng lo ngại nguồn cung.
Stephen Brennock, nhà môi giới dầu PVM, cho biết: "Những lo lắng về kinh tế có thể khiến giá dầu giảm trong tuần này, nhưng thị trường vẫn đang phát ra những tín hiệu tăng giá. Điều này là do tình trạng thắt chặt nguồn cung nhiều khả năng sẽ gia tăng hơn là giảm bớt".
Các lệnh cấm của phương Tây đối với xuất khẩu dầu của Nga đã hỗ trợ giá và gây ra sự tái định tuyến dòng chảy trong khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất đồng minh đấu tranh để đạt được mức tăng sản lượng đã cam kết.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần, song tính chung cả tuần giảm tuần thứ 4 liên tiếp do đồng USD mạnh lên và số liệu việc làm của Mỹ ổn định.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.741,94 USD/ounce; tính chung cả tuần, giá vàng giảm 3,7% - tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 5/2022. Giá vàng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn New York tăng 0,2% lên 1.742,3 USD/ounce.
Gần đây, vàng đã không thu hút được dòng tiền trú ẩn an toàn mặc dù rủi ro suy thoái ngày càng gia tăng do các nhà đầu tư thay vào đó lựa chọn đồng đô la, vốn đã tiến lên mức cao nhất trong hai thập kỷ.
Chiến lược gia thị trường cấp cao Bob Haberkorn của RJO Futures cho biết: "Dữ liệu việc làm đã đẩy giá vàng - vốn đang gặp khó khăn sau đợt tăng giá mạnh – giảm xuống. Tuy nhiên, có một số người bắt đầu săn giá hời khi giá thấp như hiện nay ".
Lãi suất của Mỹ tăng làm mất đi sự hấp dẫn của vàng bằng cách chuyển thành chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản tăng lên vì nó không mang lại lãi suất. Carsten Menke, Trưởng bộ phận Nghiên cứu của Julius Baer cho biết: "Trong ngắn hạn, chúng tôi vẫn thấy vàng được hỗ trợ bởi rủi ro suy thoái. Sau đợt điều chỉnh gần đây, chúng tôi kỳ vọng giá sẽ củng cố". Tuy nhiên: "Một sự phục hồi lâu dài có vẻ khó xảy ra nếu như Fed có thể chống lại lạm phát mà không đẩy nền kinh tế vào suy thoái."
Trên thị trường vật chất, nhu cầu được cải thiện một chút ở Ấn Độ sau khi giá nội địa giảm xuống, trong khi lo ngại về sự bùng phát dịch COVID-19 mới khiến hoạt động của người tiêu dùng hàng đầu là Trung Quốc bị ảnh hưởng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tuần tăng 0,4% lên 19,27 USD/ounce, trong khi bạch kim = tăng 2% lên 890,56 USD; palladium tăng 9,2% lên 2.174,18 USD và thiết lập tuần tăng thứ ba liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm
Giá đồng vững trong phiên cuối tuần trong bối cảnh USD giảm nhẹ trong phiên này nhưng thị trường lo ngại nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – giảm sút.
Kết thúc phhieen này, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London chỉ thay đổi nhẹ, ở mức 7.809 USD/tấn, tính chung cả tuần giá giảm tuần thứ 5 liên tiếp. Tính đến nay, giá đồng giảm gần 30% kể từ mức cao kỷ lục (10.845 USD/tấn) trong tháng 3/2022.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm kỳ hạn 3 tháng giảm 0,8% xuống 3.084 USD/tấn, nhôm vững ở mức 2.433 USD, chì giảm 2,1% xuống 1.930 USD, thiếc giảm 2,2% xuống 25.400 USD và nickel giảm 0,1% xuống 21.510 US
Giá quặng sắt châu Á biến động trái chiều. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Đại Liên phiên cuối tuần tăng 0,7% lên 755,5 CNY/tấn, trong phiên có lúc đạt 782 CNY/tấn. Trái lại, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn Singapore giảm 1% xuống 112,45 USD/tấn và có tuần giảm thứ 4 liên tiếp trong 5 tuần do thị trường chuyển tập trung sang các hạn chế COVID-19 tại nước sản xuất thép hàng đầu thế giới – Trung Quốc, làm lu mờ lạc quan về các biện pháp kích thích kinh tế tại nước này.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,8%, thép cuộn cán nóng giảm 0,4%, trong khi thép không gỉ tăng 2,1%.
Nông sản: Giá ngũ cốc tăng
Trong phiên cuối tuần, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago (Mỹ, CBOT) đều tăng, dẫn đầu là giá lúa mỳ.
Giá lúa mì trên sàn Chicago tăng 6,6%, hồi phục từ mức thấp nhất 4 tháng trong tuần này, do giảm bớt lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu và các dấu hiệu nhu cầu nhập khẩu mới.
Cụ thể, lúa mì tăng 55 US cent lên 8,91-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 1/7/2022. Giá ngô tăng 27-1/4 US cent lên 6,23-1/2 USD/bushel và giá đậu tương tăng 31 US cent lên 13,96-1/2 USD/bushel.
Tuần nghỉ lễ được rút ngắn đã tạo ra sự phục hồi vào cuối tuần do mối đe dọa về thời tiết tại Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), cũng như nhu cầu nhập khẩu ngũ cốc của Trung Quốc. Nỗi lo về thời tiết ở Mỹ và EU của công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago vẫn ở mức cao.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) báo cáo rằng trong tuần kết thúc ngày 30/6, Mỹ đã bán 10,5 triệu bushel lúa mỳ, hủy xuất khẩu 2,6 triệu bushel ngô vụ cũ và 4,4 triệu bushel ngô vụ mới và xuất khẩu 5,9 triệu bushel đậu tương vụ cũ và 8,8 triệu bushel đậu tương vụ mới.
Cho đến nay, Mỹ đã bán được 222 triệu bushel lúa mỳ, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2021; 2,376 triệu bushel ngô, giảm 13%; và 2,200 triệu bushel đậu nành, giảm 3,2%.
Giá đường thô trên sàn ICE tăng gần 3% trong phiên cuối tuần do nhu cầu tăng mạnh cùng với đó là nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Theo đó, đường thô kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn ICE tăng 0,5 US cent tương đương 2,7% lên 19,02 US cent/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 4 tháng (17,71 US cent/lb) trong phiên ngày 4/7/2022; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn London tăng 13,9 USD tương đương 2,5% lên 568,9 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn ICE tăng 1,55 US cent tương đương 0,7% lên 2,2045 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1,5 tháng (2,151 USD/lb), chịu áp lực bởi lo ngại nhu cầu có thể suy giảm; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn London tăng 37 USD tương đương 1,9% lên 1.981 USD/tấn.
Theo các nhà quan sát, mặc dù cơ quan dự báo thời tiết Somar Met ở Brazil đã báo cáo thời tiết nửa đầu tháng 7/2022 khá thuận lợi để nông dân Brazil đẩy mạnh thu hoạch và phơi sấy cà phê vụ mới vốn đã bị chậm lại vì sản lượng tăng theo chu kỳ hai năm một, song thị trường cũng đã dấy lên mối lo thời tiết mùa Đông tại các vùng cà phê chính ở Brazil vào những ngày trăng tròn tháng 7 sắp tới chưa lường trước được sẽ không có điều gì xảy ra.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, sau khi cựu Thủ tướng Nhật Bản, Shinzo Abe bị ám sát. Theo đó, cao su kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Osaka giảm 0,1 JPY xuống 247,7 JPY (1,82 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 3,1%.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Thượng Hải tăng 10 CNY lên 12.675 CNY (1.890,75 USD)/tấn; cao su giao tháng 8 trên nền tảng SICOM của Sàn giao dịch Singapore tăng 0,3% lên 160,3 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá 1/7

Giá 8/7

Giá 8/7 so với 7/7

Giá 8/7 so với 7/7 %

Dầu thô WTI

USD/thùng

107,40

103,78

-1,01

-0,96%

Dầu Brent

USD/thùng

110,60

106,26

-0,76

-0,71%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

76.580,00

74.630,00

+1.970,00

+2,71%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,70

6,36

+0,33

+5,45%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

365,07

343,43

-1,28

-0,37%

Dầu đốt

US cent/gallon

393,12

368,10

+0,81

+0,22%

Dầu khí

USD/tấn

1.218,00

1.150,75

+17,25

+1,52%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

84.500,00

86.880,00

+1.000,00

+1,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.807,30

1.740,00

-2,30

-0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.804,00

7.639,00

+76,00

+1,00%

Bạc New York

USD/ounce

19,77

19,24

0,00

-0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

86,80

82,40

+1,20

+1,48%

Bạch kim

USD/ounce

889,23

887,69

-7,07

-0,79%

Palađi

USD/ounce

1.939,08

2.091,85

-69,11

-3,20%

Đồng New York

US cent/lb

359,90

345,45

-6,75

-1,92%

Đồng LME

USD/tấn

8.048,00

7.805,50

-17,00

-0,22%

Nhôm LME

USD/tấn

2.444,00

2.436,50

-6,00

-0,25%

Kẽm LME

USD/tấn

3.029,00

3.099,00

-11,00

-0,35%

Thiếc LME

USD/tấn

26.650,00

25.364,00

-620,00

-2,39%

Ngô

US cent/bushel

607,50

650,50

+27,00

+4,33%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

846,00

915,75

+24,25

+2,72%

Lúa mạch

US cent/bushel

488,00

475,25

+6,75

+1,44%

Gạo thô

USD/cwt

16,42

16,49

+0,04

+0,21%

Đậu tương

US cent/bushel

1.395,25

1.420,25

+23,75

+1,70%

Khô đậu tương

USD/tấn

389,20

406,60

+2,90

+0,72%

Dầu đậu tương

US cent/lb

62,38

61,77

+1,28

+2,12%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

844,00

865,20

+10,10

+1,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.314,00

2.318,00

-36,00

-1,53%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

224,65

220,45

+1,55

+0,71%

Đường thô

US cent/lb

18,07

19,02

+0,50

+2,70%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

169,00

163,55

+1,25

+0,77%

Bông

US cent/lb

97,48

94,19

-1,44

-1,51%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

669,70

707,00

-18,90

-2,60%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,00

159,40

+0,60

+0,38%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa