menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa thế giới phiên 10/5: Giá giảm sâu

12:40 11/05/2022

Giá dầu, vàng, kim loại công nghiệp và nông sản đồng loạt giảm trong phiên vừa qua do lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống dưới 100 USD/thùng, xuống mức thấp nhất trong 2 tuần khi triển vọng nhu cầu chịu sức ép do các phong tỏa tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, sự mạnh lên của đồng USD cũng khiến giá dầu đắt đỏ hơn với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 3,33 USD, hay 3,2%, xuống xuống 99,76 USD/thùng, trong khi dầu Brent giảm 3,48 USD, hay 3,28%, xuống 102,46 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều giảm 2 phiên liên tiếp.
Trong đầu phiên giao dịch, các bình luận từ Bộ trưởng năng lượng Saudi Arabia và UAE đã đẩy giá cả 2 loại dầu tăng hơn 1 USD/thùng.
Các chỉ số chứng khoán Phố Wall cũng giảm sau một phiên giao dịch biến động do lo ngại về chính sách thắt chặt tiền tệ tích cực của ngân hàng trung ương Mỹ và tăng trưởng kinh tế đang chậm lại.
Ủy ban Liên minh Châu Âu cần có sự nhất trí để cấm nhập khẩu dầu từ Nga, Bộ trưởng của Pháp cho biết các thành viên EU có thể đạt được một thỏa thuận trong tuần này nhưng Hungary đã kiên quyết phản đối lệnh cấm vận.
Ngoài lệnh cấm nhập khẩu dầu từ Nga của G7 gần đây, Nhật Bản (quốc gia có 4% lượng dầu nhập khẩu từ Nga trong năm ngoái) đã đồng ý bỏ dần các giao dịch này. Thời gian và phương pháp vẫn chưa được quyết định.
Chuyên gia Tamas Varga của công ty dịch vụ dầu khí PVM Oil Associates (Vương quốc Anh) nhận định chính sách phong tỏa do dịch COVID tại Trung Quốc và chính sách tăng lãi suất trên toàn thế giới để chống lạm phát đã củng cố đà tăng của đồng USD và làm gia tăng lo ngại về suy giảm kinh tế. Đồng bạc xanh đã giao dịch gần mức cao nhất trong hai thập kỷ.
Robert Yawger, quản lý tại ngân hàng Mizuho (Nhật Bản), nhận định nhu cầu tại Trung Quốc giảm mạnh do các đợt phong tỏa và sự giảm giá của dầu Nga trên thị trường, khiến Trung Quốc có nhiều lựa chọn mua dầu hơn.
Về nguồn cung, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ đã hạ dự báo sản lượng dầu thô của Mỹ năm 2022 và 2023. Theo đó, cơ quan này dự kiến sản lượng năm 2022 đạt trung bình 11,9 triệu thùng/ngày so với ước tính trước đó là 12 triệu thùng/ngày.
Tồn trữ dầu thô, sản phẩm chưng cất và xăng của Mỹ có thể giảm trong tuần này, theo một thăm dò sơ bộ của Reuters.
Dự trữ dầu thô và các sản phẩm dầu của nhà máy lọc dầu Châu Âu ở mức 1 tỷ thùng trong tháng 4, giảm 10,3% so với cùng tháng năm trước nhưng gần mức trong tháng 3.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đảo chiều và giảm trong bối cảnh đồng USD tiếp tục mạnh lên, trong khi các nhà đầu tư hướng sự chú ý đến dữ liệu lạm phát của Mỹ để tìm kiếm manh mối về chiến lược chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.844,95 USD/ounce, sau khi tăng khoảng 0,6% trước đó trong phiên này; vàng giao sau giảm 1% xuống 1.841 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD đã tăng 0,2%, dao động gần mức cao của 20 năm trong phiên trước đó. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm rời khỏi mức “đỉnh” của bốn năm.
Edward Moya, một nhà phân tích cấp cao của công ty dịch vụ tài chính OANDA (Mỹ) cho biết ban đầu, vàng cho thấy dấu hiệu ổn định, song các nhà đầu tư vẫn lo lắng trước dữ liệu lạm phát. Bên cạnh đó, đồng USD mạnh lên đang ảnh hưởng đến giá vàng.
Nhà đầu tư đang chờ đợi số liệu về Chỉ số giá tiêu dùng Mỹ, dự kiến công bố ngày 11/5, để đánh giá tác động có thể xảy ra đối với kế hoạch tăng lãi suất của Fed.
Chủ tịch Fed chi nhánh New York John Williams cho biết mục tiêu làm giảm lạm phát mà không làm nền kinh tế trật bánh của Fed là một thách thức nhưng có thể thực hiện được trong bối cảnh bất ổn gia tăng do căng thẳng ở Ukraine và đại dịch COVID-19 gây ra.
Bob Haberkron, chiến lược gia thị trường cấp cao của công ty môi giới giao dịch hàng hóa kỳ hạn RJO Futures (Mỹ) cho biết nhận xét của ông Williams cho thấy sự ngập ngừng về việc tăng lãi suất trong tương lai.
Vàng vốn được coi là hàng rào chống lạm phát và những bất ổn kinh tế. Tuy nhiên, kim loại quý này rất nhạy cảm với việc lãi suất của Mỹ tăng, điều này làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ những tài sản không sinh lời như vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,2% xuống 21,53 USD/ounce; bạch kim tăng 1,5% lên 970,02 USD/ounce; trong khi palladium giảm 1% xuống 2.077,19 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm xuống mức thấp nhất trong gần 5 tháng do các quỹ đặt cược giá giảm bởi nhu cầu đang chậm lại, nhưng lo ngại về việc Châu Âu cắt giảm sản lượng vì chi phí năng lượng cao được dự kiến sẽ ngăn giá giảm mạnh.
Trên sàn giao dịch kim loại London, giá nhôm kết thúc phiên ở mức 2.757 USD/tấn sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 21/12/2021 tại 2.697,5 USD/tấn trước đó trong phiên này.
Nhưng rủi ro với về nguồn cung nhôm vẫn tăng, có nguy cơ đóng cửa sản xuất với khoảng 1,5 tới 2 triệu tấn khắp Châu Âu và Nga trong 3 đến 12 tháng tới. Sản lượng này chiếm khoảng 2% nguồn cung nhôm toàn cầu ước tính khoảng 70 triệu tấn trong năm nay.
Về các kim loại cơ bản khác, giá đồng phiên này giảm 0,2% xuống 9.218 USD/tấn, kẽm giảm 1% xuống 3.577 USD, chì giảm 1,9% xuống 2.113 USD, thiếc giảm 5,4% xuống 35.100 USD và nickel tăng 0,6% lên 28.350 USD.
Sắt thép cũng giảm giá trong phiên này do lo ngại về lãi suất tăng và nhu cầu trong nước vẫn trì trệ.
Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã tăng lãi suất nửa điểm phần trăm trong tuần trước và cho biết có thể tăng trong hai đến ba cuộc họp tiếp và sau đó đánh giá xem nền kinh tế và lạm phát đang phản ứng thế nào trước khi quyết định liệu có cần tăng tiếp hay không.
Trong khi đó lợi nhuận của các nhà sản xuất thép thấp và việc kiểm soát sản lượng thép tổng thể đã hạn chế việc tăng cường sản xuất và làm giảm nhu cầu đối với các thành phần sản xuất thép.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên có lúc giảm khoảng 7% xuống 756 CNY (112,71 USD)/tấn, mức thấp nhất trong vòng 2 tháng; lúc kết thúc phiên vẫn giảm 4,1% xuống 779 CNY/tấn, là phiên giảm giảm thứ 3 liên tiếp. Trên sàn giao dịch Singapore quặng sắt kỳ hạn tháng 6 giảm 3,1% xuống 123,45 USD/tấn.
Trển sàn Thượng Hải, giá thép thanh kỳ hạn tháng 10 giảm 1,5% xuống 4.607 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 1,7% xuống 4.698 CNY/tấn.
Trong ngày 9/5, ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết họ sẽ tăng cường hỗ trợ cho nền kinh tế đang chậm lại, trong khi theo dõi chặt chẽ lạm phát trong nước và giám sát việc điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế phát triển.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương đầu tăng từ mức thấp nhiều tuần đạt được trong phiên trước đó khi chúng bị áp lực bởi giá dầu thô đang giảm và việc gieo trồng cải thiện trên khắp Midwest. Báo cáo này sẽ gồm những triển vọng đầy đủ đầu tiên cho niên vụ 2022/23, cũng như đánh giá xuất khẩu của Ukraine và sản lượng tại các khu vực bị hạn hán nghiêm trọng như Brazil và Liên minh Châu Âu.
Theo đó, giá đậu tương CBOT tăng 7 US cent lên 15,92-1/4 USD/bushel; giá ngô tăng 3-1/4 US cent lên 7,75-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì kỳ hạn tháng 7 đóng cửa không đổi tại 10,92-3/4 USD/bushel.
Thị trường đang tập trung vào báo cáo mùa vụ toàn cầu của Bộ Nông nghiệp Mỹ phát hành vào ngày 12/5.
Giá đường phiên này cũng giảm, với đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,12 US cent hay 0,6% xuống 18,54 US cent/lb, sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 16/3 tại 18,51 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 8 mất 3,1 USD hay 0,6% xuống 518,3 USD/tấn.
Thị trường dự kiến sẽ dư thừa 4,1 triệu tấn trong niên vụ mới, bắt đầu từ tháng 10. Tổ chức UNICA của Brazil cho biết sản lượng đường của nước này đạt 934.000 tấn trong nửa cuối tháng 4, giảm 38,7% so với cùng kỳ năm trước, nhưng trên dự báo của thị trường.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 giảm 2,3 US cent hay 1,1% xuống 2,038 USD/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng tại 2,023 USD; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn giảm 11 USD hay 0,5% xuống 2.009 USD/tấn, trước đó đạt mức thấp nhất 8 tháng tại 2.004 USD/tấn.
Các đại lý dẫn chứng những lo lắng về việc thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn và sự sụt giảm liên quan tới tăng trưởng.
Họ lưu ý USD tăng so với các đồng tiền chính gồm đồng real của Brazil khuyến khích các nhà xuất khẩu bán ra.
Giá cao su Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất 7,5 tuần, do thị trường chứng khoán Tokyo và số liệu kinh tế trong nước suy yếu đè nặng lên tâm lý.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 3,3 JPY hay 1,3% xuống 248,2 JPY (1,91 USD)/kg, sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 18/3 tại 245,6 JPY; cao su kỳ hạn tháng 9 tại Thượng Hải tăng 150 CNY lên 12.765 CNY (1.898,40 USD)/tấn. Giá tại Thượng Hải tăng do phục hồi từ mức thấp trong phiên trước đó.
Chi tiêu của hộ tiêu dùng Nhật Bản trong tháng 3 giảm lần đầu tiên trong 3 tháng, mặc dù giảm ít hơn dự kiến do người tiêu dùng vẫn cảnh giác với chi phí sinh hoạt tăng mặc dù một số biện pháp hạn chế Covid-19 đang được nới lỏng.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

100,79

+1,03

+1,03%

Dầu Brent

USD/thùng

103,64

+1,18

+1,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

74.650,00

-530,00

-0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

7,41

+0,02

+0,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

355,69

+1,54

+0,43%

Dầu đốt

US cent/gallon

399,20

+5,98

+1,52%

Dầu khí

USD/tấn

1.144,00

+18,00

+1,60%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

79.680,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.835,00

-6,00

-0,33%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.666,00

-127,00

-1,63%

Bạc New York

USD/ounce

21,38

-0,04

-0,21%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,70

-2,30

-2,45%

Bạch kim

USD/ounce

976,56

+8,02

+0,83%

Palađi

USD/ounce

2.061,69

-6,66

-0,32%

Đồng New York

US cent/lb

419,20

+3,75

+0,90%

Đồng LME

USD/tấn

9.228,50

-9,00

-0,10%

Nhôm LME

USD/tấn

2.753,50

-1,50

-0,05%

Kẽm LME

USD/tấn

3.597,50

-17,50

-0,48%

Thiếc LME

USD/tấn

35.527,00

-1.592,00

-4,29%

Ngô

US cent/bushel

779,25

+4,00

+0,52%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.104,50

+11,75

+1,08%

Lúa mạch

US cent/bushel

591,75

-7,50

-1,25%

Gạo thô

USD/cwt

17,04

+0,13

+0,77%

Đậu tương

US cent/bushel

1.598,50

+6,25

+0,39%

Khô đậu tương

USD/tấn

402,40

+0,90

+0,22%

Dầu đậu tương

US cent/lb

81,46

+0,42

+0,52%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

1.075,60

-1,00

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.445,00

-10,00

-0,41%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

203,80

-2,30

-1,12%

Đường thô

US cent/lb

18,54

-0,12

-0,64%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

172,60

+0,85

+0,49%

Bông

US cent/lb

142,99

+0,05

+0,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

801,10

-6,60

-0,82%

Cao su TOCOM

JPY/kg

157,50

-1,10

-0,69%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa