menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 1/4: Dầu, vàng giảm tiếp tục giảm giá

11:01 01/04/2015

Trên thị trường thế giới phiên giao dịch cuối cùng của quý I, 31/3 (kết thúc vào rạng sáng 1/4 giờ VN), giá nhiều loại hàng hóa tiếp tục chịu áp lực giảm do USD tăng. Riêng thị trường năng lượng vẫn đang chờ đợi kết quả cuộc họp của nhóm P5+1.

(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch cuối cùng của quý I, 31/3 (kết thúc vào rạng sáng 1/4 giờ VN), giá nhiều loại hàng hóa tiếp tục chịu áp lực giảm do USD tăng. Riêng thị trường năng lượng vẫn đang chờ đợi kết quả cuộc họp của nhóm P5+1.

Trên thị trường năng lượng, phiên giao dịch cuối tháng (31/3), giá dầu tiếp tục giảm trong bối cảnh chờ đợi kết quả cuộc họp của nhóm P5+1, góp phần kéo giá dầu giảm trong cả tháng 3.

Phiên cuối tháng, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) của Mỹ giảm 1,08 USD, tương đương với 2,2%, xuống còn 47,60 USD/thùng. Tổng cộng trong ba phiên giao dịch cuối tháng, giá dầu thô của Mỹ đã giảm hơn 7%. Dầu Brent trên sàn London phiên cuối tháng cũng giảm 1,18 USD, tương đương với 2,1%, xuống còn 55,11 USD/thùng. Tính chung trong tháng 3, giá dầu Brent giảm tổng cộng 12%.

Trước khả năng Nhóm P5+1 (gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Đức) có thể đạt được một thỏa thuận sơ bộ về chương trình hạt nhân của Iran, theo đó lệnh cấm xuất khẩu dầu đối với Iran có thể được dỡ bỏ, giá dầu trên thị trường thế giới liên tục giảm trong ba ngày giao dịch vừa qua. Các thương gia có chung tâm lý là nếu nhóm P5+1 và Iran đạt được thỏa thuận khung vào hạn chót ngày 31/3 liên quan tới chương trình hạt nhân của Tehran thì các cường quốc sẽ dỡ bỏ một phần cấm vận xuất khẩu dầu lửa đối với Tehran, dẫn tới nguồn cung dư thừa hơn nữa.

Iran hiện chỉ được phép xuất khẩu khoảng 1 triệu thùng dầu thô/ngày so với 2,5 triệu thùng/ngày trước khi có lệnh cấm vận.
Theo tính toán của công ty Facts Global Energy, nếu cấm vận được dỡ bỏ, sản lượng khai thác dầu của Iran có thể tăng thêm khoảng 500.000 thùng/ngày trong vòng 6 tháng và 700.000 thùng trong vòng một năm. Điều này sẽ làm căng thẳng thêm tình trạng dư cung trên thị trường thế giới.

Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), năm 2014, sản lượng dầu thô của Mỹ đã tăng thêm 1,2 triệu thùng/ngày, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 1900, và tăng 16,2% so với năm trước đó, mức tăng cao nhất kể từ năm 1940, lên mức 8,7 triệu thùng/ngày bất chấp xu hướng giảm giá trên thị trường thế giới.

Sự gia tăng sản lượng này chủ yếu đến từ các mỏ dầu ở North Dakota, Texas và New Mexico - những khu vực đang sử dụng các công nghệ mới để khai thác dầu mỏ từ đá phiến như khoan thủy lực.

Bất chấp giá dầu trên thị trường thế giới giảm hơn 60% trong thời gian từ tháng 6/2014 đến tháng 1/2015 và tiếp tục giảm trong vài tuần gần đây, kết quả thăm dò dư luận, công bố ngày 30/3, của hãng tin Reuters đối với 34 chuyên gia phân tích thị trường, cho biết phần lớn các nhà phân tích đều dự báo giá dầu thô sẽ đi vào ổn định từ nửa cuối năm 2015 và sau đó sẽ tăng trong các năm 2016 và năm 2017.

Các chuyên gia dự báo giá dầu thô Brent nửa cuối năm 2015 sẽ ổn định ở mức trung bình 59,20 USD/thùng, so với mức trung bình 55 USD/thùng hiện nay, bước sang năm 2016 có thể đạt 72,10 USD và 78,70 USD/thùng vào năm 2017.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm trong phiên cuối tháng do USD tiếp tục tăng giá trong bối cảnh dự báo Fed sẽ nâng lãi suất trong năm nay.

Vàng kỳ hạn giao ngay trên sàn New York giảm 1,70 USD kết thúc tháng ở 1.184,80 USD/oz.trên sàn Comex tại sở giao dịch New York Mercantile. Như vậy tính chung cho cả tháng, giá vàng giảm 2,5% và trượt gần 0,1% trong quý đầu năm.

Như vậy, giá vàng đã giảm 3% kể từ khi chạm mức cao nhất trong vòng ba tuần qua sau khi Chủ tịch Fed – bà Janet Yellen vào hôm thứ Sáu đã báo hiệu việc tăng lãi suất có thể có khả năng sẽ được thực hiện vào cuối năm nay.

Đồng USD tăng giá sẽ làm cho vàng trở nên đắt hơn đối với người sở hữu đồng tiền khác và thường làm xói mòn sức hấp dẫn của nó.

Hiện các nhà đầu tư đang trông ngóng vào dữ liệu việc làm ở Mỹ sẽ được công bố vào cuối tuần này, với một báo cáo mạnh mẽ có khả năng làm tăng khả năng tăng lãi suất sớm.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê đảo chiều tăng trong phiên cuối tháng, nhưng tính chung trong quý I arabica vẫn mất 20%, mức giảm mạnh nhất kể từ quý IV/2000.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 trên sàn New York kết thúc tháng tăng 0,55 cent hay 0,4% lên 1,329 USD/lb nhưng giảm tháng thứ 7 liên tiếp. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 trên sàn London kết thúc tháng tăng 7 USD hay 0,4% lên 1.729 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam phiên vừa qua cũng tăng trở lại theo xu hướng thế giới. Sáng nay, giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên tăng nhẹ trở lại 200 ngàn đồng/ tấn lên mức 36,4 - 37,5 triệu đồng/ tấn.

Trái với cà phê, giá cacao phiên cuối tháng giảm xuống mức thấp 8 tuần do thời tiết thuận lợi trước khi bắt đầu vụ phụ ở Tây Phi. Cacao kỳ hạn tháng 5 tại New York đóng cửa tăng 4 USD hay 0,1%, lên 2.699 USD/tấn. Cacao kỳ hạn tháng 5 tại London đóng cửa giảm 2 GBP hay 0,1% xuống 1.901 GBP/tấn.

Giá đường trên sàn New York phiên cuối tháng chạm mức thấp nhất trong vòng hơn 6 năm do nguồn cung dồi dào.

Hàng hóa
ĐVT
Giá
So với phiên trước
So với phiên trước (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
47,60
-1,08
-2,2%
Dầu Brent
USD/thùng
55,11
-1,18
-2,1%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
42.040,00
-710,00
-1,66%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,64
0,00
0,00%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
178,00
-2,06
-1,14%
Dầu đốt
US cent/gallon
171,79
-1,33
-0,77%
Dầu khí
USD/tấn
520,25
-3,75
-0,72%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
55.410,00
-530,00
-0,95%
Vàng New York
USD/ounce
1.184,80
-1,70
-0,49%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.555,00
+1,00
+0,02%
Bạc New York
USD/ounce
16,67
+0,07
+0,43%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,20
+0,50
+0,78%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.142,38
+0,44
+0,04%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
737,40
+1,25
+0,17%
Đồng New York
US cent/lb
275,05
+1,05
+0,38%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.041,00
-41,00
-0,67%
 Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.785,00
-12,50
-0,70%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.081,00
-28,00
-1,33%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
16.605,00
-445,00
-2,61%
Ngô
US cent/bushel
379,25
+3,00
+0,80%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
515,50
+3,75
+0,73%
Lúa mạch
US cent/bushel
262,50
-2,25
-0,85%
Gạo thô
USD/cwt
10,91
+0,03
+0,28%
Đậu tương
US cent/bushel
982,25
+9,00
+0,92%
Khô đậu tương
USD/tấn
329,70
+2,90
+0,89%
Dầu đậu tương
US cent/lb
30,66
+0,27
+0,89%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
458,00
+2,70
+0,59%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.699,00
+4,00
+0,15%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
132,90
+0,55
+0,42%
Đường thô
US cent/lb
11,93
-0,06
-0,50%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
125,10
-4,35
-3,36%
Bông
US cent/lb
62,90
-0,20
-0,32%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
275,90
-2,30
-0,83%
Cao su TOCOM
JPY/kg
205,40
-0,50
-0,24%
Ethanol CME
USD/gallon
1,50
-0,04
-2,47%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg