(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới trong phiên giao dịch 20/10 (kết thúc vào rạng sáng 21/10 giờ VN) hầu hết giảm, với dầu và cà phê sụt giảm mạnh trong khi vàng hồi phục nhẹ.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm bởi triển vọng nhu cầu thấp trong khi OPEC tiế tục duy trì sản lượng bất chấp nguồn cung dồi dào.
Giá dầu ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11 trên sàn giao dịch New York giảm 4 cent xuống 82,71 USD/thùng. Kỳ hạn giao tháng 11 đáo hạn vào hôm nay 21/10 và phần lớn khối lượng trên thị trường đã được chuyển sang hợp đồng giao tháng 12 với mức giá giảm 15 cent xuống 81,91 USD/thùng.
Giá dầu Brent giao tháng 11 trên sàn ICE Futures Europe giảm 76 cent (-0,9%) xuống 85,4 USD/thùng.
Sau 2 phiên liên tiếp tăng, giá dầu đã giảm trở lại ngay phiên đầu tuần bất chấp những tin tức mang tính hỗ trợ, kể cả báo cáo về xuất khẩu giảm của Arab Saudi và việc tạm ngừng sản xuất tại mỏ dầu liên doanh Saudi-Kuwait do những lo ngại về vấn đề môi trường. Iran cũng đã rút đề nghị triệu tập phiên họp khẩn cấp OPEC để thảo luận việc cắt giảm sản lượng và đẩy giá lên; điều này có nghĩa sẽ chưa có bất kỳ sự thay đổi nào về sản lượng cho đến khi phiên họp thường niên ngày 27/11 của OPEC kết thúc.
Các nhà phân tích đang có những nhận định trái chiều về giá dầu. Trong khi các nhà phân tích tại Goldman Sachs và Morgan Stanley cho rằng thị trường đang bị bán ra vượt dự trữ, thì những người khác lại cho rằng giá có thể tiếp tục giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên đầu tuần trước đồn đoán Fed sẽ trì hoãn việc nâng lãi suất do kinh tế toàn cần tăng trưởng chậm lại. Bên cạnh đó, USD giảm giá và nhu cầu vật chất tại Ấn Độ tăng trước lễ hội Diwali trong tuần này và mùa cưới bắt đầu cũng hỗ trợ giá vàng.
Tuần trước, giá vàng ghi nhận tuần thứ 2 tăng liên tiếp, bất chấp giá giảm trong phiên thứ Năm và thứ Sáu 17/10 khi lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại làm tăng nhu cầu vàng như tài sản trú ẩn an toàn. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, thị trường chứng khoán hồi phục và kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng có thể gây áp lực lên giá vàng trong ngắn hạn.
Giá vàng kỳ hạn giao tháng 12 trên sàn New York tăng 5,7 USD (+0,5%) lên 1.244,7 USD/ounce. Hai phiên trước đó, giá vàng giảm 0,5%.
USD giảm 0,2% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ cũng hỗ trợ giá vàng. Sau một tuần USD biến động, nhà đầu tư dường như bắt đầu một tuần “yên ắng”, chưa sẵn sàng đưa ra những đặt cược mới cho đến khi có được số liệu lạm phát Mỹ, dự kiến công bố vào thứ Tư 22/10 và báo cáo sản xuất tại châu Âu, công bố vào thứ Năm 23/10.
Nhu cầu vật chất tại châu Á vẫn mạnh nhưng được dự đoán sẽ giảm với chênh lệnh giá hợp đồng kilobar trên Sàn Giao dịch Vàng Thượng Hải giảm trong tuần trước, MKS cho biết hôm 20/10.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,7% lên 17,35 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,9% lên 1.264,7 USD/ounce và giá palladium tăng 1,2% lên 760,05 USD/ounce.
Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm. Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 12 trên thị trường New York giá giảm 11,25 US cent/lb (-5,34%) xuống 199,4 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 11,1 US cent/lb (-5,17%) xuống 203,5 US cent/lb; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 11,05 US cent/lb xuống 205,6 US cent/lb; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 10,85 US cent/lb xuống 207,15 US cent/lb.
Trên thị trường London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 68 USD/tấn (-3,21%) xuống 2.049 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 69 USD/tấn (-3,24%), xuống 2.060 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 69 USD (-3,23%) xuống 2.069 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 69 USD (-3,21%) xuống 2.082 USD/tấn.
Trên thị trường Việt Nam, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm sâu 1,4 triệu đồng/tấn xuống 38,6-39,8 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB giảm 69 USD/tấn từ 2.099 USD/tấn cuối tuần trước xuống 2.030 USD/tấn.
Vicofa dự đoán, do ảnh hưởng của thời tiết nên sản lượng cà phê niên vụ 2014-2015 của Việt Nam giảm khoảng 10-15% so với niên vụ trước. Sản lượng cà phê niên vụ 2013-2014 đạt 1,2 triệu tấn; xuất khẩu đạt 1,3 triệu tấn, trị giá 2,7 tỷ USD.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
82,71
|
-0,04
|
-0,05%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,27
|
-0,13
|
-0,15%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
56.980,00
|
-960,00
|
-1,66%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,67
|
-0,01
|
-0,14%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
220,13
|
+0,11
|
+0,05%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
248,30
|
-0,26
|
-0,10%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
734,00
|
+1,00
|
+0,14%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
70.190,00
|
-1.050,00
|
-1,47%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.247,10
|
+2,40
|
+0,19%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.279,00
|
+8,00
|
+0,19%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,41
|
+0,05
|
+0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,90
|
-0,20
|
-0,33%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.268,69
|
+0,06
|
0,00%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
762,50
|
-0,75
|
-0,10%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
299,45
|
+0,65
|
+0,22%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.560,00
|
-79,00
|
-1,19%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.972,00
|
0,00
|
0,00%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.215,00
|
-34,00
|
-1,51%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.355,00
|
+50,00
|
+0,26%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
350,00
|
+1,75
|
+0,50%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
514,00
|
+0,50
|
+0,10%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
342,50
|
-8,00
|
-2,28%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,53
|
+0,03
|
+0,20%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
951,00
|
+6,75
|
+0,71%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
332,60
|
+3,20
|
+0,97%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,82
|
+0,12
|
+0,38%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
406,20
|
-1,90
|
-0,47%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.120,00
|
+2,00
|
+0,06%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
199,40
|
-11,25
|
-5,34%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,68
|
+0,06
|
+0,36%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
136,90
|
-0,50
|
-0,36%
|
Bông
|
US cent/lb
|
62,53
|
+0,24
|
+0,39%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
333,50
|
-1,00
|
-0,30%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
190,60
|
-1,80
|
-0,94%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,69
|
0,00
|
+0,06%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters/Bloomberg