menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 23/4: Dầu WTI và vàng giảm, cà phê đảo chiều tăng

10:55 23/04/2015

Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 22/4 (kết thúc vào rạng sáng 23/4 giờ VN), giá dầu biến động trái chiều bởi hai tác nhân khác nhau, một bên là tồn trữ ở Mỹ tăng, một bên là không kích tiếp tục ở Yemen. Vàng giảm giá do USD tăng.
(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 22/4 (kết thúc vào rạng sáng 23/4 giờ VN), giá dầu biến động trái chiều bởi hai tác nhân khác nhau, một bên là tồn trữ ở Mỹ tăng, một bên là không kích tiếp tục ở Yemen. Vàng giảm giá do USD tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động trái chiều. Tại New York, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm sau số liệu tồn kho không như kỳ vọng. WTI kỳ hạn giao tháng tháng 5/2015 giảm 45 cent, tương đương 0,8%, xuống 55,16 USD/thùng. Tại London, dầu Brent tăng nhẹ khi liên quân do Arab Saudi đứng đầu vẫn ném bom tại Yemen bất chấp việc Riyadh tuyên bố dừng các cuộc không kích. Brent kỳ hạn giao tháng 6/2015 trên sàn ICE tăng 65 cent, tương đương 1%, lên 62,73 USD/thùng.

Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào 17/4 tăng 5,3 triệu thùng lên 489 triệu thùng, cao nhất kể từ 1982. Như vậy, tồn kho dầu thô của Mỹ đã tăng liên tiếp 15 tuần qua.

Tồn kho dầu thô tai Cushing, Oklahoma, tuần qua tăng lên 62,2 triệu thùng, cao kỷ lục kể từ 2004 và gần chạm công suất tối đa. Dự trữ dầu thô tại Gulf Coast cũng đạt kỷ lục 242,5 triệu thùng, cao nhất kể từ 1990.

Số liệu của EIA cũng cho thấy, lượng dầu thô chế biến của các nhà máy lọc dầu giảm khi công suất chế biến giảm từ 92,3% xuống 91,2%. Điều này khá bất thường vì đây là thời điểm khi các nhà máy lọc dầu thường tăng công suất sau khi kết thúc bảo dưỡng định kỳ và tăng sản lượng xăng và các loại nhiên liệu khác trước mùa hè.

Sản lượng dầu thô của Mỹ giảm 3 trong 4 tuần qua, đạt bình quân 9,37 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào 17/4, giảm 18.000 thùng/ngày so với tuần trước đó và giảm 0,6% so với đỉnh 9,42 triệu thùng/ngày ghi nhận hồi tháng 3.

Giới thương nhân dự đoán, sản lượng dầu Mỹ sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới khi các công ty dầu mỏ giảm chi tiêu và số giàn khoan đang hoạt động giảm mạnh nhằm đối phó với tình trạng giá dầu lao dốc trong năm qua. Tuy nhiên, một số nhà phân tích lại có quan điểm ngược lại khi cho rằng sản lượng dầu của Mỹ vẫn tiếp tục cao trong những tháng tới thậm chí năm tới khi các công ty nâng cao hiệu quả khai thác tại các giếng dầu hiện có.

Nguồn cung sản phẩm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, trong tuần kết thúc vào 17/4 tăng 400.000 thùng, thấp hơn dự đoán. Giá dầu diesel giao tháng 5/2015 tăng 1,76 cent, tương đương 0,9%, lên 1.8708 USD/gallon.

Về sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex tăng 3,64 cent, tương đương 1,9%, lên 1.9245 USD/gallon. Tồn kho xăng trong tuần kết thúc vào 17/4 giảm 2,1 triệu thùng, cao hơn dự đoán của giới phân tích.

Trên thị trường kim loại quý, vàng vừa trải qua phiên giảm giá mạnh nhất 6 tuần sau khi Mỹ công bố doanh số bán nhà tháng 3 cao nhất 18 tháng, cho thấy kinh tế Mỹ đang duy trì đà tăng trưởng mạnh, làm tăng đồn đoán Fed nâng lãi suất vào tháng 6. Lãi suất tăng sẽ làm giảm nhu cầu vàng - tài sản phi lãi suất.

Giá vàng giao ngay đóng cửa giảm 1,3% xuống 1.186,63 USD/ounce sau khi giảm xuống 1.185,33 USD/ounce, thấp nhất kể từ 14/4, ghi nhận phiên giảm giá mạnh nhất kể từ 6/3. Giá vàng giao tháng 6/2014 trên sàn Comex New York giảm 16,2 USD, tương đương 1,4%, xuống 1.186,9 USD/ounce.

Sau báo cáo doanh số bán nhà, USD đảo chiều tăng so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ.

Giới đầu tư cũng theo theo dõi sát sao tình hình Hy Lạp - đang rơi vào tình trạng cạn tiền mặt. Hồi tháng 2, Hy Lạp đã cam kết với các đối tác trong khu vực đồng euro rằng vào cuối tháng 4 sẽ thỏa thuận với các chủ nợ về danh sách cải cách nhằm nhận được 7,2 tỷ USD còn lại từ gói cứu trợ. Tuy nhiên, khoản tiền cứu trợ vẫn chữa sẵn có cho đến tận thứ Sáu khi các bộ trưởng eurozone nhóm họp tại Riga.

Trên thị trường vàng vật chất, lễ hội Aksshaya Tritiya tại Ấn Độ - nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới - cũng diễn ra hôm thứ Ba. Tuy vậy, sức mua vàng vẫn rất chậm bất chấp dịp lễ hội.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,3% xuống 15,77 USD/ounce, giá bạch kim giảm 1,9% xuống 1.125,25 USD/ounce và giá palladium giảm 1,8% xuống 755 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, cà phê đảo chiều tăng sau khi Robobank đã nâng dự báo thiếu hụt cà phê toàn cầu niên vụ hiện tại thêm 300.000 bao lên 6,4 triệu bao, trong khi hạ ước tính thiếu hụt niên vụ 2015-2016, giảm 100.000 bao xuống 1,5 triệu bao, chủ yếu do sản lượng cà phê của Brazil dự đoán tăng lên 48,5 triệu bao.

Trên thị trường New York, arabica kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 2,1 US cent/lb lên 142,4 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 0,95 US cent/lb lên 143,65 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 0,85 US cent/lb lên 146,3 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 0,75 US cent/lb lên 149,9 US cent/lb.

Giá cà phê Arabica tăng chủ yếu do đồng nội tệ real Brazil tăng so với USD, làm tăng giá tài sản của Brazil. Đồng nội tệ real Brazil tiếp tục hồi phục so với USD và với việc thu hoạch cà phê Arabica vụ tới chỉ còn vài tuần nữa là đạt chính vụ, hoạt động bán ra tồn kho cà phê Arabica trên thị trường nội địa diễn ra khá chậm chạp.

Trên thị trường London, robusta cũng tăng, với hợp đồng kỳ hạn giao 5/2015 giá tăng 19 USD/tấn lên 1.820 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 16 USD/tấn lên 1.841 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 14 USD/tấn lên 1.863 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá tăng 12 USD/tấn lên 1.877 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice7/Liffe7) tăng nhẹ lên 60,15 US cent/lb từ 59,93 US cent/lb hôm qua.

Robobank dự đoán sản lượng cà phê của Việt Nam - nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - năm nay đạt 30 triệu bao. Đồng thời nhận định, giá Robusta “có thể chưa đủ tốt để nông dân Việt Nam xả bán lượng hàng tồn kho” và dự đoán giá Robusta bình quân quý IV/2015 đạt 2.200 USD/tấn, cao hơn so với 1.878 USD/tấn giá kỳ hạn giao tháng 11/2015 ghi nhận hôm 22/4.

Vụ thu hoạch cà phê robusta tại Sumatra, Indonesia, chuẩn bị bắt đầu với sản lượng dự đoán tăng 20-25%. Do vậy, giới thương nhân dự đoán vào tháng 6 tới, lực bán cà phê vụ mới sẽ tăng.

Trên thị trường Việt Nam, giá cà phê tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay 23/4, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau khi giảm nhẹ trong phiên hôm qua, đã đảo chiều tăng 400.000-500.000 đồng/tấn lên 38,6-39,5 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 19 USD/tấn từ 1.821 USD/tấn hôm qua lên 1.840 USD/tấn.

Tháng 4 đang dần kết thúc với kỳ nghỉ lễ Lao động quốc tế kéo dài gần một tuần, giới thương nhân dự đoán xuất khẩu cà phê tháng 4 của Việt Nam chỉ đạt 2 triệu bao, giảm so với 2,17 triệu bao trong tháng 3/2015. Như vậy, xuất khẩu cà phê 7 tháng đầu năm niên vụ 2014-2015 (tháng 10/2014 – tháng 9/2015) chỉ đạt xấp xỉ 12,83 triệu bao, thấp nhất kể từ năm 2009-2010.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
So với phiên trước
So với phiên trước (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
56,38
+0,22
+0,39%
Dầu Brent
USD/thùng
62,88
+0,15
+0,24%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
47.050,00
+1.040,00
+2,26%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,59
-0,02
-0,61%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
193,07
+0,62
+0,32%
Dầu đốt
US cent/gallon
187,76
+0,68
+0,36%
Dầu khí
USD/tấn
571,00
-1,25
-0,22%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
60.190,00
+1.030,00
+1,74%
Vàng New York
USD/ounce
1.186,40
-0,50
-0,04%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.573,00
-41,00
-0,89%
Bạc New York
USD/ounce
15,79
-0,01
-0,07%
Bạc TOCOM
JPY/g
61,20
-0,70
-1,13%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.129,88
-0,12
-0,01%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
758,25
+1,65
+0,22%
Đồng New York
US cent/lb
267,35
-0,35
-0,13%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.911,00
-34,00
-0,57%
 Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.806,00
-10,00
-0,55%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.235,00
+28,00
+1,27%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
15.555,00
+30,00
+0,19%
Ngô
US cent/bushel
379,50
0,00
0,00%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
500,25
+1,25
+0,25%
Lúa mạch
US cent/bushel
266,25
+4,00
+1,53%
Gạo thô
USD/cwt
10,09
-0,07
-0,69%
Đậu tương
US cent/bushel
974,50
+2,75
+0,28%
Khô đậu tương
USD/tấn
315,00
+1,20
+0,38%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,78
+0,03
+0,09%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
452,10
+0,60
+0,13%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.782,00
+7,00
+0,25%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
143,65
+0,95
+0,67%
Đường thô
US cent/lb
12,59
+0,21
+1,70%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
114,75
+1,75
+1,55%
Bông
US cent/lb
63,02
+0,10
+0,16%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
251,40
+8,50
+3,50%
Cao su TOCOM
JPY/kg
206,90
+2,20
+1,07%
Ethanol CME
USD/gallon
1,60
-0,01
-0,81%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg