(VINANET) – Phiên giao dịch 4/9 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 5/9 giờ VN), giá nhiều mặt hàng giảm do chịu tác động từ việc USD tăng giá.
Đồng bạc xanh đã lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2013 so với 10 đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, trong khi đó, chứng khoán toàn cầu cũng tăng.
USD chạm mốc cao nhất gần 6 năm so với yên sau khi quyết sách của ECB và BOJ. Ngân hàng Trung ương châu Âu bất ngờ cắt giảm một số lãi suất chính sách chủ chốt và thông báo sẽ áp dụng thêm nhiều biện pháp để kích thích tăng trưởng kinh của khu vực. Trên thị trường tiền tệ, giới đầu tư đang bán tháo euro để mua USD, dẫn tới yên cũng trượt giá mạnh.
Thêm vào đó, sự khác biệt về chính sách tiền tệ của Mỹ và Nhật Bản cũng là yếu tố hỗ trợ USD tăng giá. Trong khi kinh tế Mỹ đón nhận nhiều tín hiệu phục hồi đáng kể và dần lấy lại đà tăng trưởng thì ngân hàng trung ương Nhật Bản vẫn giữ nguyên chính sách kích thích và "mắc kẹt" với đánh giá kinh tế lạc quan bất chấp những dấu hiệu suy yếu gần đây.
USD tăng lên 105,26 JPY. Theo phân tích của một số chuyên gia, USD vẫn còn đà tăng giá cao hơn, thậm chí có thể lên đến 106,5 JPY hay 107 JPY nếu số liệu việc làm của Mỹ (dự kiến công bố vào cuối ngày hôm nay theo giờ châu Á) mang tín hiệu tích cực.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do USD tăng khiến những hàng hóa tính bằng đồng tiền này trở nên kém hấp dẫn.
Giá dầu ngọt, nhẹ kỳ hạn giao tháng 10 trên thị trường New York giảm 1,09 USD (-1,1%) xuống 94,45 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu Brent cùng kỳ hạn trên thị trường London giảm 94 cent (-0,9%) xuống 101,83 USD/thùng.
Đồng USD tăng giá khiến tài sản như dầu thôi trở nên đắt hơn đối với các nhà đầu tư đang nắm giữ các đồng tiền khác. Đồng euro giảm xuống mức thấp nhất 14 tháng qua so với USD sau khi ECB bất ngờ giảm lãi suất xuống mức thấp kỷ lục trong một nỗ lực kích thích tăng trưởng kinh tế tại khu vực eurozone.
Giá dầu cũng giảm do số liệu hàng tuần của chính phủ cho thấy nguồn cung dầu của Mỹ giảm 905.000 thùng trong tuần kết thúc vào 29/8, thấp hơn dự báo 1,1 triệu thùng của các nhà phân tích. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã công bố số liệu tồn kho muộn hơn 1 ngày so với thông thường do kỳ nghỉ Lễ Lao động.
Dự trữ xăng giảm 2,3 triệu thùng xuống 210 triệu thùng, thấp nhất kể từ 15/11/2013. Trong khi dự đoán của các nhà phân tích là giảm 1,4 triệu thùng.
Dự trữ sản phẩm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, tăng 605.000 thùng, trong khi các nhà phân tích dự báo giảm 200.000 thùng.
Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 giảm 2,01 cent (-0,8%) xuống 2,5999 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 10 giảm 2,95 cent (-1%) xuống 2,8363 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm, xuống mức thấp nhất 11 tuần qua bởi USD tăng làm giảm nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn.
Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex giảm 3,8 USD xuống 1.266,5 USD/ounce với khối lượng giao dịch cao hơn 20% so với mức trung bình 30 ngày.
Euro yếu hơn so với USD sẽ khiến vàng định giá vàng USD trở nên đắt hơn đối với nhà đầu tư châu Âu và các nhà đầu tư khác ngoài nước Mỹ.
Năm nay, giá vàng đã tăng 5% do căng thẳng leo thang tại Ukraine và Trung Đông.
Số liệu về việc làm phi nông nghiệp của Mỹ sẽ được công bố vào thứ 6 được dự đoán sẽ cung cấp thêm thông tin về nền kinh tế lớn nhất thế giới này và về thời điểm Fed tăng lãi suất.
Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR giảm 2,69 tấn xuống 790,51 tấn hôm thứ 4 (3/9).
Trong số các kim loại quý, giá bạc giảm 0,3% xuống 19,08 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,1% lên 1.403,49 USD/ounce và giá palladium tăng 1,6% lên 885,75 USD/ounce.
Trên thị trường cà phê, giá hồi phục trở lại sau phiên giảm trước đó. Cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá tăng 0,15 US cent/lb lên 197,45 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá tăng 0,15 US cent/lb lên 202,45 US cent/lb, và giá kỳ hạn tháng 3/2015 tăng 0,2 US cent/lb lên 206,45 US cent/lb.
Một số báo cáo cho biết đã có mưa trên diện rộng tại các vùng trồng cà phê arabica chính tại Brazil, mặc dù lượng mưa không lớn, nhưng lại diễn ra tương đối sớm so với mọi năm và không chỉ ảnh hưởng đến các trang trại cà phê mà còn tạo ra tâm lý đầu cơ trên thị trường.
Cà phê robusta tại London cũng tăng, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 9 giá tăng 21 USD, tương đương +1,01%, lên 2.069 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 29 USD/tấn, tương đương +1,39%, lên 2.091 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 30 USD/tấn, tương đương +1,43%, lên 2.100 USD/tấn.
Giá cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay 5/9, cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 500.000 đồng/tấn lên40,2-41,2 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay tăng 9 USD từ 2.042 USD/tấn hôm qua xuống 2.051 USD/tấn.
|
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
94,47
|
+0,02
|
+0,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
101,77
|
-0,06
|
-0,06%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.870,00
|
-20,00
|
-0,03%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,82
|
-0,00
|
-0,03%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
260,04
|
+0,05
|
+0,02%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
283,95
|
+0,32
|
+0,11%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
863,50
|
-3,25
|
-0,37%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
82.040,00
|
+40,00
|
+0,05%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.264,40
|
-2,10
|
-0,17%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.282,00
|
-5,00
|
-0,12%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,10
|
-0,04
|
-0,20%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,60
|
-0,20
|
-0,31%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.406,75
|
+0,81
|
+0,06%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
888,35
|
-0,45
|
-0,05%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
315,85
|
+0,75
|
+0,24%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.930,00
|
+26,00
|
+0,38%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.105,00
|
+26,00
|
+1,25%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.398,00
|
+33,00
|
+1,40%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.500,00
|
+150,00
|
+0,70%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
349,00
|
+2,50
|
+0,72%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
537,50
|
+7,25
|
+1,37%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
345,75
|
+4,75
|
+1,39%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,54
|
+0,02
|
+0,16%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.006,25
|
+3,00
|
+0,30%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
343,60
|
+2,10
|
+0,61%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,25
|
+0,04
|
+0,12%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
413,00
|
-0,30
|
-0,07%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.132,00
|
-14,00
|
-0,45%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
202,45
|
+0,15
|
+0,07%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,13
|
-0,49
|
-3,14%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
148,60
|
-0,80
|
-0,54%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,32
|
-0,13
|
-0,20%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
340,50
|
+0,40
|
+0,12%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
197,10
|
-2,70
|
-1,35%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,98
|
-0,02
|
-0,80%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg