menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 7/1: Dầu tiếp tục giảm, vàng và cà phê tăng khá mạnh

11:42 07/01/2015

Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 6/1 (kết thúc vào rạng sáng 7/1 giờ VN), giá hàng hóa tiếp tục biến động mạnh. Thăng trầm trên thị trường tài chính đang tác động tới các thị trường hàng hóa. Giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp mới. Trong khi đó, vàng vẫn tiếp tục tăng.
(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 6/1 (kết thúc vào rạng sáng 7/1 giờ VN), giá hàng hóa tiếp tục biến động mạnh. Thăng trầm trên thị trường tài chính đang tác động tới các thị trường hàng hóa. Giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp mới. Trong khi đó, vàng vẫn tiếp tục tăng.
Trên thị trường năng lượng, dầu thô tiếp tục giảm giá xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4/2009 do lo ngại về tốc độ tăng trưởng chậm chạp của kinh tế toàn cầu.

Giá dầu WTI ngọt nhẹ giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex New York giảm 2,11 USD (-4,2%) xuống 47,93 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 4/2009. Khối lượng giao dịch cao hơn 55% so với mức trung bình 100 ngày.

Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 2,01 USD (-3,8%) xuống 51,10 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 4/2009.

Tình trạng bán tháo tăng mạnh khi thương nhân ước tính dự trữ dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 2/1 tăng. Trong khi đó, có thêm dấu hiệu cho thấy Arab Saudi, nước xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới, vẫn sẽ không giảm giảm lượng, gia tăng áp lực lên thị trường.

Giá dầu tuột dốc trong những tháng qua chủ yếu do lo ngại dư cung toàn cầu, phần lớn vì sản lượng dầu của Mỹ bất ngờ tăng mạnh, trong khi tăng trưởng nhu cầu thấp hơn dự đoán.

Theo các nhà quan sát thị trường, các công ty năng lượng đang cắt giảm chi tiêu nhằm đối phó với giá dầu lao dốc, nhưng có thể phải mất nhiều tháng trước khi tăng trưởng sản lượng chậm lại.

Ngày hôm nay Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố số liệu dự trữ dầu Mỹ trong tuần kết thúc vào 2/1. Giới phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự đoán, báo cáo của EIA sẽ cho thấy nguồn cung dầu Mỹ tưang 300.000 thùng, trong khi dự trữ xăng tăng 3,2 triệu thùng và dự trữ sản phẩm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, tăng 2,3 triệu thùng.

OPEC đã quyết định không giảm sản lượng dầu trong tháng 11/2014, khiến nhiều nhà đầu tư và thương nhân thất vọng khi đặt cược Khối này sẽ hành động để tái cân bằng thị trường.

Arab Saudi, nước xuất khẩu dầu lớn nhất OPEC, tuần này đã tái khẳng định quan điểm. Hôm thứ Hai 5/1, Vương quốc này đã hạ giá dầu bán cho khách hàng Mỹ, dấu hiệu cho thấy nước này đang cố giành lại thị phần và kéo giảm giá dầu xuống mức đủ thấp khiến hoạt động sản xuất dầu đá phiến của Mỹ không còn lợi nhuận. Việc Arab Saudi hạ giá bán dầu cho khách hàng Mỹ trong những tháng qua đã gây áp lực không nhỏ lên giá dầu.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex giảm 2,71 cent (-2%) xuống 1,3543 USD/gallon, thấp nhất kể tháng 3/2009. Giá dầu diesel giao tháng 2/2015 giảm 2,3 cent (-1,3%) xuống 1,7262 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 9/2009.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng lên mức cao nhất 3 tuần khi nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn tăng trong bối cảnh chứng khoán và giá dầu lao dốc.

Giá vàng giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 1,3% lên 1.219,4 USD/ounce. Giá vàng tính theo euro lên cao nhất kể từ tháng 9/2013 khi đạt 1.024,21 euro/ounce.

Bất ổn chính trị tại Hy Lạp trước cuộc bầu cử tại nước này ngày 25/1 tới đây đã làm gia tăng lo ngại nước này có thể phải rời khỏi eurozone. Chỉ số S&P 500 hôm 6/1 giảm xuống dưới 2.000 điểm lần đầu tiên kể từ 17/12/2014, trong khi chỉ số chứng khoán Mỹ tiếp tục đi xuống và USD giảm giá so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ.

Tâm lý của giới đầu tư cũng chịu tác động tiêu cực khi giá dầu lại phá đáy xuống thấp nhất 5,5 năm khi giảm hơn 4% do lo ngại dư cung toàn cầu tiếp tục tăng. Tâm lý này khiến nhà đầu tư tìm đến tài sản trú ẩn an toàn như trái phiếu chính phủ Mỹ, Đức, yên Nhật và vàng.

Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Hai 5/1 tăng 0,25% lên 170,81 tấn, tuy vẫn ở mức thấp nhất gần 6 năm.

Trong khi đó, số liệu cho thấy các quỹ phòng hộ và nhà quản lý tiền tệ đã tăng vị thế mua ròng hợp đồng vàng quyền chọn và tương lai trước dấu hiệu cho thấy nhu cầu vật chất tại Trung Quốc tăng.

Chênh lệch giữa giá vàng nội địa Trung Quốc và giá quốc tế trên Sàn Giao dịch Vàng Thượng Hải hôm 6/1 đạt 5-6 USD/ounce, được giới thương nhân coi là dấu hiệu cho thấy nhu cầu tại Trung Quốc đang tăng trước Tết âm lịch.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,3% lên 16,51 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.214,1 USD/ounce và giá palladium tăng 1,2% lên 799,22 USD/ounce.

Trên thị trường hàng hóa nhẹ, giá cà phê đồng loạt tăng trên các thị trường. Cà phê arabica tại New York kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 6,8 UScent/lb lên 174,9 UScent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 6,8 UScent/lb lên 177,55 UScent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 6,75 UScent/lb lên 179,9 UScent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 6,55 UScent/lb lên 181,95 UScent/lb.

Cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 45 USD/tấn (+2,33%) lên 1.934 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 41 USD/tấn (+2,1%) lên 1.942 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 41 USD/tấn (+2,08%) lên 1.975 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 38 USD/tấn (+1,91%) lên 1.994 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam tiếp tục tăng mạnh theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay (7/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên tăng thứ 2 liên tiếp trong tuần khi tăng 800.000 đồng/tấn lên 39,9-40,9 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 41 USD/tấn từ 1.848 USD/tấn hôm qua lên 1.889 USD/tấn.

Theo báo cáo Cam kết Thương nhân mới nhất, trong tuần kết thúc vào 30/12, Quỹ quản lý tiền tệ đã giảm 11,47% vị thế mua ròng cà phê arabica chế biến ướt trên sàn New York xuống 24.063 lô. Cùng kỳ, Quỹ Chỉ số tăng 0,57% vị thế mua ròng cà phê arabica lên 40.041 lô, trong khi giới đầu cơ phi thương mại giảm 23,87% vị thế mua ròng xuống 13.720 lô, tương đương 3.889.559 bao.

Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam (Vicofa) dự báo xuất khẩu cà phê năm 2015 của Việt Nam sẽ giảm 3,3 triệu bao so với năm 2014. Ước tính của Vicofa được đưa ra dựa trên dự báo sản lượng cà phê Việt Nam, chủ yếu là robusta, niên vụ 2014-2015 giảm 20-25% so với niên vụ 2013-2014.

Theo giới thương nhân, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 1/2015 dự báo đạt 150.000 tấn (2,5 triệu bao), tăng 25% so với tháng 12/2014 khi nông dân cần thêm tiền mặt để chi tiêu trong dịp Tết âm lịch cũng như để tưới nước cho cây cà phê.

Việc tưới nước cho cây cà phê thường bắt đầu vào tháng 2 và kết thúc vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5 khi bắt đầu có mưa tại vùng trồng cà phê Tây Nguyên.

Trái với cà phê, giá cao su giảm khỏi mức cao kỷ lục 6 tháng trong phiên vừa qua do giá dầu và chứng khoán Nhật Bản tuột dốc, trong khi yên tăng.

Giá cao su giao tháng 6/2015 trên sàn TOCOM chốt phiên giảm 0,2 yên xuống 214,2 yên/kg, trước đó giá chạm 215,5 yên/kg, cao nhất kể từ 3/7.

Theo một nhà môi giới tại Tokyo, chỉ số Nikkei 225 giảm và đồng yên mạnh lên đang gây áp lực lên sàn TOCOM.

Chỉ số Nikkei Nhật Bản hôm thứ Ba 6/1 giảm 3% trong bối cảnh bất ổn chính trị tại Hy Lạp và giá dầu tuột dốc, trong khi yên mạnh lên.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-
+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
47,96
-0,03
-0,06%

Dầu Brent

USD/thùng
51,06
-0,04
-0,08%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
39.840,00
-1.650,00
-3,98%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,94
0,00
+0,10%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
134,81
-0,62
-0,46%

Dầu đốt

US cent/gallon
170,56
-2,06
-1,19%

Dầu khí

USD/tấn
490,00
-6,00
-1,21%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
51.300,00
-1.660,00
-3,13%

Vàng New York

USD/ounce
1.216,30
3,10
0,25%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.648,00
+38,00
+0,82%

Bạc New York

USD/ounce
16,48
-0,16
-0,94%

Bạc TOCOM

JPY/g
63,40
+1,30
+2,09%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.219,19
-0,25
-0,02%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
802,75
-0,15
-0,02%

Đồng New York

US cent/lb
276,65
-0,05
-0,02%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.145,00
0,00
0,00%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.787,00
-31,50
-1,73%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.175,00
-10,00
-0,46%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.775,00
+280,00
+1,44%
Ngô
US cent/bushel
405,00
0,00
0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
593,75
+2,00
+0,34%

Lúa mạch

US cent/bushel
304,00
-0,50
-0,16%

Gạo thô

USD/cwt
11,60
-0,01
-0,09%

Đậu tương

US cent/bushel
1.054,75
-1,00
-0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn
355,00
-0,10
-0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb
32,78
-0,09
-0,27%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
447,80
-0,80
-0,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.902,00
-42,00
-1,43%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
174,90
+6,80
+4,05%

Đường thô

US cent/lb
14,87
+0,61
+4,28%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
142,25
-4,20
-2,87%
Bông
US cent/lb
60,21
+0,01
+0,02%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
318,00
+0,60
+0,19%

Cao su TOCOM

JPY/kg
210,90
-3,30
-1,54%

Ethanol CME

USD/gallon
1,48
-0,02
-1,21%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg