(VINANET) - Hàng hóa thế giới hầu hết tăng trong phiên giao dịch 18/7 (kết thúc vào rạng sáng 19/7 giờ VN) với dầu thô lập kỷ lục cao 16 tháng do những dấu hiệu cho thấy kinh tế vững vàng hơn, và đồng cùng vàng hồi phục sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khẳng định rằng ngân hàng trung ương sẽ cân nhắc kỹ lưỡng việc giảm quy mô kích thích.
Ông Bernanke cho biết chương trình mua trái phiếu của chính phủ không hề tuân theo một con đường định sẵn và có thể nhanh chóng được thu hẹp hoặc mở rộng tùy thuộc vào tình hình của nền kinh tế. Ngoài ra, Bernanke cũng cho rằng các số liệu kinh tế tích cực cùng với sự phản ứng thái quá của nhà đầu tư trước thông điệp của Fed là những nguyên nhân khác khiến lãi suất tăng.
Giá nông sản hầu hết giảm.
Ngô và đậu tương kỳ hạn tại Chicago giá giảm phiên thứ 2 liên tiếp bởi dự báo thời tiết ôn hòa và sẽ có mưa nhẹ ở khắp khu vực Trung Tây nước Mỹ, làm giảm bớt lo ngại về tình trạng khô hạn.
Tại New York, giá cà phê arabica quay đầu giảm sau khi chạm mức cao nhất gần 2 tháng bởi các thương gia bán mạnh sau khi giá tăng trong phiên trước – khi có dự báo khả năng thời tiết lạnh sẽ gây sương giá ở Brazil. Đường thô giá tăng bởi dự báo mưa ở Brazil.
Chỉ số 19 hàng hóa nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng gần 1% trong phiên vừa qua, được hậu thuẫn đắc lực bởi giá dầu thô Mỹ - thành tố lớn nhất trong chỉ số. Phiên trước đó, CRB đã mất 0,2%.
Giá dầu thô Mỹ kỳ hạn giao tháng 8 tăng 1,56 USD hay 1,5% lên 108,04 USD/thùng, cao nhất kể từ đầu tháng 3/2012.
Dầu thô Brent giá tăng 9 US cent lên 108,70 USD.
Chênh lệch giá giữa 2 loại dầu này đã giảm mạnh trong mấy tuần qua bởi công suất dẫn dầu tăng làm giảm lượng tồn trữ dầu WTI ở kho chứa tại Cushing, Oklahoma.
Giá dầu tăng trong phiên vừa qua cũng bởi thông báo từ Cục Dự trữ Philadelphia cho biết hoạt động tại nhà máy ở khu vực Trung Địa Trung Hải của Mỹ đang ở mức cao nhất 2 năm.
Trên thị trường vàng, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên trên 1.283 USD/ounce.
Trên thị trường đồng, hợp đồng giao sau 3 tháng tại London giá 6.900, tăng so với mức 6.890 USD phiên trước đó.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
107,99
|
-0,05
|
-0,05%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
108,85
|
+0,15
|
+0,14%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.150,00
|
+660,00
|
+1,02%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,81
|
0,00
|
0,00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
313,75
|
+2,77
|
+0,89%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
311,56
|
+1,49
|
+0,48%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
930,25
|
+1,75
|
+0,19%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
79.520,00
|
+780,00
|
+0,99%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.285,00
|
-0,50
|
-0,04%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.165,00
|
+52,00
|
+1,26%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,34
|
-0,05
|
-0,28%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
63,60
|
+0,80
|
+1,27%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.417,23
|
+2,93
|
+0,20%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
744,83
|
-0,52
|
-0,07%
|
Đồng
|
US cent/lb
|
313,55
|
+0,40
|
+0,13%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.905,00
|
+15,00
|
+0,22%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.805,00
|
+1,50
|
+0,08%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.857,00
|
+3,00
|
+0,16%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.545,00
|
+20,00
|
+0,10%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
498,75
|
-2,00
|
-0,40%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
660,75
|
+0,25
|
+0,04%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
341,00
|
+0,25
|
+0,07%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,42
|
+0,03
|
+0,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.265,75
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
376,70
|
-1,20
|
-0,32%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
45,51
|
+0,12
|
+0,26%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
518,40
|
-1,50
|
-0,29%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.347,00
|
+47,00
|
+2,04%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
127,55
|
-0,40
|
-0,31%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,18
|
+0,10
|
+0,62%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
143,05
|
-1,75
|
-1,21%
|
Bông
|
US cent/lb
|
84,85
|
+1,18
|
+1,41%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
1.047,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
330,70
|
-0,80
|
-0,24%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
258,80
|
+11,20
|
+4,52%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,34
|
-0,00
|
-0,09%
|
(T.H – Reuters, Bloomberg)