Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, trong 9 tháng đầu năm 2019, trị giá xuất khẩu của cả nước đạt 194,65 tỷ USD, tăng 8,4% tương ứng tăng 15,18 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Riêng xuất sang thị trường Trung Quốc thu về 28,24 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch – đây là thị trường có kim ngạch lớn chỉ đứng thứ hai sau Mỹ (trên 44 tỷ USD), tuy nhiên so với cùng kỳ tốc độ xuất khẩu giảm nhẹ 1,95%, riêng tháng 9/2019 Việt Nam cũng đã xuất sang Trung Quốc 4,37 tỷ USD, tăng 6,44% so với tháng 8/2019 nhưng giảm 1,92% so với tháng 9/2018.
Trong rổ hàng hóa xuất sang Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm nay có 8 nhóm hàng trị giá tỷ USD, trong đó nhóm hàng máy vi tính sản phẩm điện tử, linh kiện đạt cao nhất trên 6,5 tỷ USD, tăng 9,58% so với cùng kỳ, riêng tháng 9/2019 đạt 990,45 nghìn USD, tăng 11,23% so với tháng 8/2019 và tăng 22,23% so với tháng 9/2018.
Thứ hai là điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,66 tỷ USD, nhưng so với cùng kỳ 2018 giảm 19,23%, riêng tháng 9/2019 kim ngạch tăng 39,33% so với tháng 8/2019 nhưng giảm 6,2% so với tháng 9/2018 đạt 1,5 tỷ USD. Kế đến là mặt hàng rau quả, tuy nhiên kim ngạch giảm 13,46% chỉ với 4,6 tỷ USD; tiếp theo là hàng xơ sợi dệt tăng 21,35% về lượng và tăng 8,94% trị giá so với cùng kỳ năm trước đạt 697,5 nghìn tấn, trị giá 1,77 tỷ USD, giá bình quân 2548,97 USD/tấn.
Đứng thứ 5 về kim ngạch là nhóm hàng máy ảnh, máy quay phim và linh kiện, giảm 28,44% tương ứng với 1,2 tỷ USD.
Ba nhóm hàng còn lại là giày dép, hàng dệt may và máy móc thiết bị đều có tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, trong đó giày dép tăng nhiều nhất 20,87%, tiếp theo là dệt may 9,84% và máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng tăng 1,39%.
Đặc biệt 9 tháng đầu năm 2019 nhóm hàng sắt thép xuất khẩu sang Trung Quốc tăng đột biến, tăng gấp 25,29 lần về lượng (tức tăng 2429,74%) và gấp 8,9 lần về trị giá (tức tăng 795,71%), tuy nhiên giá xuất bình quân chỉ có 494,98 USD/tấn, giảm 64,59% so với cùng kỳ; riêng tháng 9/2019 cũng đã xuất sang Trung Quốc 31,49 nghìn tấn, trị giá 15 triệu USD, giảm 1,9% về lượng và 0,1% trị giá, giá bình quân tăng 1,83% đạt 477,07 USD/tấn so với tháng 8/2019, nhưng nếu so với tháng 9/2018 tăng gấp 92,8 lần về lượng và gấp 41,17 lần về trị giá, giá bình quân giảm 55,68%.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tăng mạnh nhập khẩu hạt điều và clanke. Cụ thể, đã xuất 49,8 nghìn tấn hạt điều, trị giá 384,65 triệu USD, giá bình quân giảm 15,27% tương ứng với 7710,73 USD/tấn, tăng 65,2% về lượng và tăng 39,98% trị giá so với cùng kỳ năm trước; clanke và xi măng đạt 9,71 triệu tấn, trị giá 371,23 triệu USD, giá bình quân 38,23 USD/tấn, tăng 48,05% về lượng và 57,69% trị giá, giá bình quân tăng 6,51% so với cùng 9 tháng năm 2018.
Ngược lại, Trung Quốc giảm mạnh nhập khẩu gạo từ Việt Nam, giảm 65,59% về lượng và 66,8% trị giá, tương ứng với 387,8 nghìn tấn, trị giá 192,8 triệu USD, giá bình quân 497,36 USD/tấn, giảm 3,49% so với cùng kỳ.
Đáng chú ý, xuất khẩu chè sang thị trường Trung Quốc tuy lượng sụt giảm 23,97% chỉ với 5,9 nghìn tấn, nhưng có giá xuất bình quân tăng nhiều nhất, gấp 2,3 lần (tức tăng 128,46%) so với cùng kỳ năm 2018.
Thời gian qua, một số địa phương của Trung Quốc đưa ra quy định về truy xuất nguồn gốc đối với một số mặt hàng nông sản của Việt Nam. Ngoài ra, phía Trung Quốc cũng đang siết chặt quản lý về an toàn thực phẩm, hàng rào kiểm dịch.
Vậy để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam phải dần thay đổi cách thức trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để đáp ứng các quy định thị trường nhập khẩu đặt ra. Để xây dựng được thương hiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc, sản phẩm phải đáp ứng các yêu cầu phía Trung Quốc đặt ra như kiểm dịch kiểm nghiệm, cung cấp thông tin tình hình trồng trọt, nơi sản xuất, bao gói ghi rõ tên sản phẩm, số hồ sơ vườn trồng...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường áp dụng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap và GlobalGap nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về kiểm nghiệm, kiểm dịch ngày càng nghiêm ngặt của Chính phủ Trung Quốc. Trước khi xuất khẩu cần phân loại rõ ràng phẩm cấp, quy cách của từng loại hàng cụ thể. Nghiên cứu thiết kế bao bì riêng cho thị trường Trung Quốc, trong đó nên ưu tiên các thông tin trên bao bì bằng tiếng Trung…