Hiện nay Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tuy nhiên, hàng hóa của Trung Quốc cũng đã thâm nhập mạnh vào thị trường Việt Nam dẫn đến thâm hụt thương mại của nước ta ngày càng lớn.
Nếu như năm 2009, nước ta nhập siêu từ Trung Quốc 11,54 tỷ USD, thì năm 2011 tăng lên 13,467 tỷ USD, năm 2012 là 16,397 tỷ USD và trong 10 tháng đầu năm 2013 đã lên đến 19,675 tỷ USD.
Nguyên nhân của tình trạng này trước hết bởi cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta vào Trung Quốc chưa đa dạng, luôn thua thiệt về trị giá, chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô nên giá trị kinh tế, sức cạnh tranh không cao, trong khi hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam là sản phẩm đã được hoàn thiện.
Bên cạnh đó, các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc đều có tốc độ tăng trưởng như: máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, chiếm 17,4% tỷ trọng, tương đương với trên 5,2 tỷ USD, tăng 23,46% so với cùng kỳ; điện thoại và linh kiện, với 4,8 tỷ USD, tăng 80,39% và máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, tăng 39,03%, với kim ngạch 3,7 tỷ USD; vải tăng 28,06%, đạt kim ngạch 3,1 tỷ USD; sắt thép các loại tăng 42,08%, đạt trên 2 tỷ USD….
Đồng thời, một số nhóm hàng có giá trị cao là nguyên, nhiên liệu như: dầu thô, than đá có kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh trong những năm gần đây do chủ trương hạn chế xuất khẩu càng làm mất cân đối cán cân thương mại theo chiều hướng gia tăng nhập siêu từ Trung Quốc.
Bên cạnh đó, tốc độ xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam cho dù vẫn tăng nhưng đồng thời lại phải nhập khẩu một lượng hàng lớn nguyên phụ liệu, thiết bị từ Trung Quốc vì ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước còn chưa phát triển.
Cụ thể như: ngành da giày, theo Hiệp hội Da giày, túi xách Việt Nam, cho đến nay, tỷ lệ nội địa hóa của ngành da giầy mới chỉ khoảng 40-45%, tập trung chủ yếu vào đế giày và chỉ khâu giày, trong khi nguyên liệu quan trọng nhất là da thuộc và da nhân tạo vẫn phải nhập khẩu. Các doanh nghiệp da giày trong nước thường mua nguyên phụ liệu của Trung Quốc để sản xuất hàng xuất khẩu.
Theo Tập đoàn Dệt may Việt Nam, nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu phục vụ sản xuất chiếm tới 50%, chủ yếu là từ Trung Quốc.
Không chỉ hai ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dệt may, da giày đang phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu từ Trung Quốc thì cả ngành điện cũng không thoát khỏi tình trạng này.
Nhiều dự án nhà máy điện hiện nay vay vốn tín dụng xuất khẩu từ Trung Quốc. Từ đó, nhà đầu tư Trung Quốc đã trở thành tổng thầu EPC, tức là nhà thầu sẽ tự bỏ vốn để thi công và sau khi hoàn thành sẽ chuyển giao toàn bộ dự án cho nhà đầu tư.
Thống kê hàng hóa nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc 10 tháng 2013
ĐVT: USD
(Nguồn số liệu: Thống kê sơ bộ TCHQ)
|
KNNK 10T/2013
|
KNNK 10T/2012
|
Tốc độ +/- (%)
|
Tổng kim ngạch
|
30.374.590.921
|
23.452.819.641
|
29,51
|
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
5.286.320.785
|
4.281.698.039
|
23,46
|
điện thoại các loại và linh kiện
|
4.869.802.540
|
2.699.599.428.00
|
80,39
|
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
3.716.944.167
|
2.673.429.751
|
39,03
|
vải các loại
|
3.157.469.666
|
2.465.533.426
|
28,06
|
sắt thép các loại
|
2.065.895.862
|
1.454.062.548
|
42,08
|
Xăng dầu các loại
|
1.008.463.133
|
1.091.556.823
|
-7,61
|
nguyên phụ liệu dệt, may,da giày
|
993.640.338
|
773.776.795
|
28,41
|
phân bón các loại
|
703.420.654
|
691.424.542
|
1,73
|
sản phẩm từ sắt thép
|
680.634.632
|
671.081.152
|
1,42
|
hóa chất
|
673.356.750
|
630.859.773
|
6,74
|
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
614.245.436
|
|
|
sản phẩm từ chất dẻo
|
559.723.106
|
398.983.612
|
40,29
|
kim loại thường khác
|
447.861.912
|
271.952.904
|
64,68
|
sản phẩm hóa chất
|
440.706.026
|
373.134.484
|
18,11
|
xơ sợi dệt các loại
|
375.004.948
|
305.162.143
|
22,89
|
chất dẻo nguyên liệu
|
352.697.592
|
275.468.582
|
28,04
|
thuốc trừ sâu và nguyên liệu
|
313.090.893
|
254.787.124
|
22,88
|
dây điện và dây cáp điện
|
298.889.892
|
238.662.693
|
25,24
|
khí đốt hóa lỏng
|
257.695.400
|
272.546.594
|
-5,45
|
linh kiện, phụ tùng ô tô
|
172.430.175
|
132.100.170
|
30,53
|
hàng điện gia dụng và linh kiện
|
161.015.842
|
142.807.242
|
12,75
|
gỗ và sản phẩm gỗ
|
159.235.541
|
165.236.737
|
-3,63
|
sản phẩm từ giấy
|
130.623.007
|
115.428.960
|
13,16
|
hàng rau quả
|
126.691.767
|
131.281.839
|
-3,50
|
nguyên phụ liệu dược phẩm
|
125.000.740
|
121.313.402
|
3,04
|
ô tô nguyên chiếc các loại
|
119.712.818
|
123.349.690
|
-2,95
|
giấy các loại
|
118.568.851
|
83.887.881
|
41,34
|
sản phẩm từ kim loại thường khác
|
114.957.445
|
88.499.055
|
29,90
|
thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
113.779.102
|
202.721.121
|
-43,87
|
sản phẩm từ cao su
|
113.249.901
|
107.987.139
|
4,87
|
sản phẩm khác từ dầu mỏ
|
97.119.419
|
101.267.508
|
-4,10
|
quặng và khoáng sản khác
|
84.594.194
|
|
|
linh kiện, phụ tùng xe máy
|
70.015.887
|
76.597.675
|
-8,59
|
nguyên phụ liệu thuốc lá
|
42.773.021
|
47.831.203
|
-10,58
|
dược phẩm
|
36.234.912
|
35.607.029
|
1,76
|
đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
31.127.639
|
6.204.240
|
401,72
|
cao su
|
27.010.854
|
31.725.878
|
-14,86
|
Phương tiện vận tải khác và phụ tùng
|
23.416.986
|
33.050.778
|
-29,15
|
Hàng thuỷ sản
|
18.908.347
|
14.331.733
|
31,93
|
bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
8.072.434
|
8.192.241
|
-1,46
|
bông các loại
|
7.551.057
|
2.303.480
|
227,81
|
dầu mỡ động thực vật
|
2.907.469
|
5.049.413
|
-42,42
|
xe máy nguyên chiếc
|
1.764.798
|
2.375.986
|
-25,72
|
sữa và sản phẩm
|
86.925
|
27.744
|
213,31
|
Nhằm giảm nhập siêu, đặc biệt từ Trung Quốc, hàng loạt các biện pháp được đưa ra như xây dựng hàng rào thuế quan và phi thuế quan, ban hành danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu với những sản phẩm đã xuất khẩu được trong nước, nhờ ngân hàng can thiệp để hạn chế cho vay ngoại tệ nhập khẩu điện thoại và các mặt hàng tiêu dùng khác….Tuy nhiên tỷ lệ nhập siêu vẫn cao cho thấy, hiệu quả của những biện pháp này còn hạn chế.
Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, việc đưa kim ngạch xuất – nhập khẩu giữa hai bên về trạng thái cân bằng là vô cùng khó khăn và cần phải có những biện pháp đồng bộ, lâu dài. Giải pháp quan trọng nhất hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ.
Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng bởi, hiện nay, Việt Nam đang trong những vòng cuối cùng đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Để được hưởng những lợi thế khi tham gia tổ chức này, thì các sản phẩm xuất khẩu phải có nguồn gốc từ trong nước hoặc các quốc gia trong khối. Trong khi đó, Trung Quốc lại chưa nằm trong nhóm này, vì thế nếu các ngành xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, thì lợi thế của Việt Nam trong khối này dường như bằng không.
Việt Nam và Trung Quốc đang đặt mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương lên 60 tỷ USD vào năm 2015. Với đà tăng trưởng như hiện nay, mục tiêu này sẽ hoàn toàn đạt được. Tuy nhiên, nếu Việt Nam không nhanh chóng có sự chuyển hướng tích cực trong thực hiện hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc thì kim ngạch 60 tỷ USD này vẫn tiếp tục nghiêng về Trung Quốc.
(Nguồn: Vinanet; Thời báo tài chính online)
Nguồn:Vinanet