(VINANET) - Tính từ đầu năm cho đến hết tháng 5/2013 Việt Nam đã xuất khẩu 268 nghìn tấn xơ sợi dệt các loại, đạt kim ngạch 803,5 triệu USD,tăng 9,12% về lượng và tăng 9,57% về trị giá so với cùng kỳ năm 2012. Tính riêng tháng 5/2013, xuất khẩu mặt hàng này tăng trưởng cả về lượng và trị giá so với tháng 4/2013, tăng lần lượt 13,1% và 11,2%.
Các thị trường chính nhập khẩu xơ sợi dệt của Việt Nam là Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc… Trong đó Trung Quốc là thị trường chính, chiếm 34,2% thị phần, đạt kim ngạch 293,2 triệu USD, tăng 29,99% về lượng và tăng 24,60% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý, xuất khẩu xơ sợi dệt sang thị trường Ấn Độ tuy chỉ đạt 4,7 nghìn tấn, trị giá 23 triệu USD, nhưng lại là thị trường có sự tăng trưởng mạnh hơn cả, tăng 129,41% về lượng và tăng 88,91% về trị giá.
Thống kê thị trường xuất khẩu xơ, sợi dệt 5 tháng đầu năm 2013
ĐVT: Lượng(Tấn); Trị giá: (USD)
Tổng KN
|
XK 5T/2013
|
XK 5T/2012
|
% so sánh
|
Lượng
|
Trị giá
|
Lượng
|
Trị giá
|
Lượng
|
Trị giá
|
Tổng KN
|
268.035
|
803.562.073
|
245.640
|
733.361.591
|
9,12
|
9,57
|
Trung Quốc
|
91.821
|
293.252.844
|
70.635
|
235.354.705
|
29,99
|
24,60
|
Thỗ Nhì Kỳ
|
53.145
|
131.447.500
|
52.244
|
134.517.274
|
1,72
|
-2,28
|
Hàn Quốc
|
32.261
|
100.501.597
|
33.519
|
102.224.318
|
-3,75
|
-1,69
|
Indonesia
|
10.930
|
35.512.783
|
9.824
|
29.772.808
|
11,26
|
19,28
|
Thái Lan
|
10.657
|
28.476.545
|
13.406
|
37.288.002
|
-20,51
|
-23,63
|
Anh
|
8.477
|
11.106.127
|
6.847
|
11.062.889
|
23,81
|
0,39
|
Hoa Kỳ
|
5.985
|
13.074.318
|
8.892
|
15.127.671
|
-32,69
|
-13,57
|
Malaixia
|
5.795
|
17.862.116
|
4.986
|
14.371.386
|
16,23
|
24,29
|
Đài Loan
|
5.034
|
16.589.586
|
2.816
|
9.154.616
|
78,76
|
81,22
|
Ân Độ
|
4.735
|
23.005.856
|
2.064
|
12.177.928
|
129,41
|
88,91
|
Ai Cập
|
4.511
|
12.445.058
|
6.765
|
18.396.236
|
-33,32
|
-32,35
|
Braxin
|
4.466
|
12.623.599
|
3.934
|
10.046.662
|
13,52
|
25,65
|
Philippine
|
4.123
|
11.717.677
|
5.185
|
13.524.548
|
-20,48
|
-13,36
|
Pakistan
|
3.782
|
11.289.408
|
3.810
|
10.764.528
|
-0,73
|
4,88
|
Cămpuchia
|
2.587
|
7.136.251
|
1.181
|
3.934.386
|
119,05
|
81,38
|
Hồng Kông
|
1.931
|
10.499.864
|
2.442
|
14.134.316
|
-20,93
|
-25,71
|
Nhật Bản
|
1.633
|
12.688.435
|
1.353
|
9.135.928
|
20,69
|
38,89
|
Italia
|
273
|
3.560.055
|
730
|
5.428.075
|
-62,60
|
-34,41
|
(Nguồn số liệu: TCHQ)
Theo nguồn tin từ VOV online, vào năm 2015 Việt Nam sẽ đáp ứng 90% nhu cầu xơ sợi cho dệt may.
Trong đánh giá về tình hình đầu tư nước ngoài trong phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, riêng về ngành công nghiệp dệt may, da giày, Bộ Công thương cho biết: Hầu hết các dây chuyền và thiết bị sản xuất của ngành dệt may, da giày hiện nay của Việt Nam đều nhập của Hàn Quốc và Đài Loan. Hầu như chưa có các doanh nghiệp trong nước sản xuất các máy móc chuyên phục vụ sản xuất các ngành này, Tập đoàn Dệt may Việt Nam trước đây cũng đã có nhà máy sản xuất các loại máy móc này song hiện nay đã dừng sản xuất để tập trung vào những khâu sản xuất có thế mạnh.
Sản xuất sợi của Việt Nam phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây, các loại sợi thông dụng đã đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất, các loại sợi tổng hợp, sợi pha với tỷ lệ khác nhau cũng đã bắt đầu được sản xuất, hiện đã xuất khẩu được khoảng 1,8 tỷ USD sản phẩm sợi đi các nước.
Bước sang thời kỳ tăng tốc, ngành dệt may đã liên doanh với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đầu tư 320 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất xơ polyeste ở Ðình Vũ (Hải Phòng), công suất 160.000 tấn/năm. Cùng với xây dựng Nhà máy sản xuất xơ Fomosa (Ðài Loan) tại KCN Nhơn Trạch, công suất 60.000 tấn/năm, dự kiến đến 2015, sản xuất xơ trong nước sẽ đáp ứng được 80-90% nhu cầu xơ của ngành dệt may.
Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt đầu được sản xuất. Đối với thuốc nhuộm: toàn bộ số thuốc nhuộm hiện đang sử dụng đều phải nhập khẩu; Tỷ lệ chất trợ và hoá chất cơ bản trong nước sản xuất cung cấp cho ngành dệt chiếm từ 5-15% nhưng hầu hết là những sản phẩm có giá trị thấp, mặc dù về số lượng nhiều nhưng giá trị chỉ đạt 4,55% tổng nhu cầu của ngành dệt.
Tại Việt Nam hiện đã có các cơ sở sản xuất một số chủng loại phụ liệu chính như: chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa, khóa kéo, băng chun, nhãn mác, bao bì đáp ứng được một phần nhu cầu của thị trường nội địa.
Những năm gần đây, ngành sản xuất giày trong nước phát triển nhanh khiến nhu cầu cung ứng nguyên phụ liệu sản xuất giày tăng mạnh. Nhiều cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu đã ra đời. Tuy nhiên các cơ sở trên được hình thành tự phát và còn nhỏ lẻ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp thuộc da đã đầu tư công nghệ thiết bị tiên tiến của Ý, Hà Lan để cung cấp các loại da thuộc bảo đảm tiêu chuẩn cho sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, nguyên liệu da thô vẫn còn phải nhập khẩu từ nước ngoài là chủ yếu. Tương tự như vậy, mặc dù Việt Nam có tiềm năng về cao su, chất dẻo nhưng tỉ lệ sử dụng nguyên liệu trong nước chỉ đạt 40%; 60% còn lại đều nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc với số lượng và giá cả rất cạnh tranh.
Nguồn:Vinanet