Trên thị trường năng lượng, giá dầu diễn biến trái chiều. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng nhẹ sau khi Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin tỏ ý ủng hộ việc mở rộng các biện pháp thúc đẩy nền kinh tế. Trái lại, dầu Brent giảm do lo ngại mức cắt giảm sản lượng có thể vẫn chưa đủ bù đắp cho mức sụt giảm nhu cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 16 US cent, hay 0,5%, xuống 34,65 USD/thùng. Trong khi đó, dầu WTI kỳ hạn tháng 6/2020 – đáo hạn trong ngày 19/5 - tăng 68 US cent (2,1%) lên 32,50 USD/thùng; kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 31 US cent lên 31,96 USD/thùng. Diễn biến này rất tích cực so với cách đây một tháng, thời điểm kỳ hạn tháng 5 đáo hạn, khi đó kỳ hạn tháng 5/2020 giảm xuống dưới mức âm.
Trong phiên vừa qua, giá dầu WTI đã có nhiều thời điểm biến động rất mạnh. Đầu phiên, giá giảm sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin trong phiên điều trần tại Thượng viện đã phải đối mặt với nhiều câu hỏi hóc búa. Nhưng sau đó giá đảo chiều tăng trở lại sau khi ông Mnuchin cho biết ông sẵn sàng xem xét việc mở rộng và điều chỉnh chương trình bảo vệ tiền lương cho các doanh nghiệp nhỏ.
Ông John Kilduff, chuyên gia của công ty Again Capital Management ở New York, cho rằng nếu báo cáo chính thức hàng tuần dự kiến được công bố vào ngày 20/5 (giờ địa phương) cho thấy lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm xuống, giá dầu sẽ còn được hỗ trợ hơn nữa.
Giá dầu đã khởi sắc trong ba tuần qua khi các bang ở Mỹ đã dần thu hẹp tình trạng phong tỏa và sản lượng dầu toàn cầu cũng giảm xuống. Tuy nhiên, các nhà tư vấn thuộc Eurasia Group cảnh báo, nhu cầu dầu sẽ hồi phục chậm, trong khi suy thoái toàn cầu và dịch bệnh tại các thị trường mới nổi gia tăng có thể cản trở đà phục hồi.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do triển vọng kinh tế thế giới hồi phục không chắc chắn, mặc dù lạc quan về một loại vắc-xin có thể giúp chống lại virus SARS-VoV-2 hạn chế đà tăng này.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.743,25 USD/ounce, trong khi giá vàng kỳ hạn tháng 6/2020 tăng 0,6% lên 1.745,60 USD/ounce. Phiên trước đó, sự khởi sắc của chứng khoán và giá dầu đã khiến giá vàng giảm khỏi mức cao nhất trong vòng nhiều năm.
Các biện pháp kích thích khổng lồ trên toàn cầu nhằm hạn chế thiệt hại kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra đã hỗ trợ giá vàng, khi nhà đầu tư xem đây như một kênh đầu tư phòng trừ rủi ro trước lạm phát và sự mất giá của đồng tiền.
Trong khi đó, lo ngại quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc xấu đi cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu đối với các tài sản trú ẩn an toàn như vàng, với Nasdaq Inc dự kiến công bố các biện pháp hạn chế, động thái được cho là sẽ khiến nhiều công ty Trung Quốc khó có thể niêm yết tại đây.
Về những kim loại quý khác, giá palađi vững ở 2.012,54 USD/ounce, sau khi có lúc đạt mức cao nhất 1 tháng là 2.109,20 USD/ounce; bạch kim tăng 2% lên 834,65 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 1,4% lên 17,41 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, Giá đồng tăng nhẹ vào cuối phiên, mặc dù đã giảm khỏi mức cao nhất 2 tháng do lo ngại thiệt hại kinh tế gây ra bởi đại dịch Covid-19 làm lu mờ lạc quan về một loại vắc-xin tiềm năng.
Kết thúc phiên giao dịch, trên sàn London, giá đồng giao sau 3 tháng tăng 0,7% lên 5.354,5 USD/tấn, trước đó trong cùng phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ ngày 16/3/2020 (5.377,5 USD/tấn). So với thời điểm giá chạm mức thấp nhất 45 tháng (ngày 19/3/2020) đến nay, giá đồng đã tăng 22%.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn London giảm 0,6% xuống 1.487 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.502 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/4/2020; giá kẽm tăng 0,4% lên 2.031,5 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.038 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 13/3/2020.
Giá kim loại phiên vừa qua được kích thích một phần bởi các thị trường tài chính tăng điểm sau thông tin từ công ty Moderna (Mỹ) cho thấy kết quả thử nghiệm vắc-xin rất tích cực. Tuy nhiên, số liệu kinh tế lại bi quan khi số lượng nhà mới xây giảm kỷ lục trong tháng 4/2020 và đơn xin trợ cấp thất nghiệp tháng 4/2020 ở Anh tăng lên mức cao nhất trong 24 năm.
Nhóm sắt thép đồng loạt tăng giá. Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng phiên thứ 5 liên do triển vọng nhu cầu nội địa tăng bởi kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế trong khi nguồn cung không suôn sẻ vì nguy cơ xuất khẩu từ Brazil có thể tiếp tục bị gián đoạn do dịch bệnh.
Kết thúc phiên giao dịch, quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 3,6% lên 711 CNY (100,07 USD)/tấn. Như vậy, sau 5 phiên tăng liên tiếp, giá mặt hàng này đã tăng tổng cộng 13%. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn Singapore tăng 1,4% lên 92,56 USD/tấn, sau khi đã tăng 3,4% trong phiên trước đó; giá thép cây trên sàn Thượng Hải tăng 1,4%, thép cuộn cán nóng tăng 1,3% và thép không gỉ tăng 0,5%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ giảm do tiến độ trồng trọt ở nước này nhanh hơn so với dự kiến và các hợp đồng xuất khẩu sang Trung Quốc chậm lại. Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 1-3/4 US cent lên 4,98-3/4 USD/bushel. Giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 1/2 US cent lên 3,21-1/4 USD/bushel, trong khi giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 2-1/2 US cent xuống 8,42-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn New York tăng 0,05 US cent tương đương 0,5% lên 10,85 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 1 USD tương đương 0,3% lên 364,6 USD/tấn.
Giá dầu thô đang trên đà tăng hỗ trợ cho thị trường đường. Tuy nhiên, đường thô rất khó để vượt qua ngưỡng kháng cự 11 US cent/lb. Thị trường hiện đang tập trung sự chú ý vào việc các nhà máy ở Trung – Nam Brazil sẽ chuyển hướng tăng sản xuất đường hay ethanol.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE giảm 0,7 US cent tương đương 0,6% xuống 1,0705 USD/lb. Trong khi đó, giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 2 USD tương đương 0,2% lên 1.184 USD/tấn. Trong báo cáo gửi khách hàng, Commerzbank cho biết mức giá hỗ trợ của arabica là trong khoảng 1,0180 đến 1,0380 USD/lb.
Giá cao su tại Tokyo tăng lên mức cao nhất gần 1 tháng do kết quả vắc xin thử nghiệm virus corona giai đoạn đầu đầy hứa hẹn và kỳ vọng nhiều biện pháp hỗ trợ kinh tế. Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn TOCOM tăng 2,3 JPY tương đương 1,5% lên 153,7 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 20/4/2020; cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 0,3% lên 10.310 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 20/5/2020
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
31,93
|
-0,03
|
-0,09%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
34,72
|
+0,07
|
+0,20%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
25.080,00
|
-240,00
|
-0,95%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,82
|
-0,01
|
-0,55%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
103,99
|
-0,53
|
-0,51%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
97,11
|
-0,25
|
-0,26%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
290,25
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
34.670,00
|
-150,00
|
-0,43%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.753,30
|
+7,70
|
+0,44%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.079,00
|
+76,00
|
+1,27%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,09
|
+0,19
|
+1,06%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,00
|
+1,60
|
+2,69%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
849,82
|
+13,20
|
+1,58%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.031,26
|
+7,38
|
+0,36%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
241,55
|
-0,25
|
-0,10%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.355,00
|
+37,50
|
+0,71%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.492,00
|
-4,00
|
-0,27%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.033,50
|
+9,50
|
+0,47%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
15.360,00
|
+78,00
|
+0,51%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
319,50
|
-1,75
|
-0,54%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
498,00
|
-0,75
|
-0,15%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
315,50
|
-0,25
|
-0,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,09
|
+0,02
|
+0,12%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
844,00
|
+1,50
|
+0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
284,70
|
+0,10
|
+0,04%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,06
|
-0,03
|
-0,11%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
473,10
|
+0,80
|
+0,17%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.435,00
|
+31,00
|
+1,29%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
107,05
|
-0,70
|
-0,65%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
10,85
|
+0,05
|
+0,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
127,75
|
+0,95
|
+0,75%
|
Bông
|
US cent/lb
|
59,45
|
+0,25
|
+0,42%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
354,30
|
+8,10
|
+2,34%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
154,20
|
+0,50
|
+0,33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,09
|
+0,01
|
+0,74%
|
Nguồn:VITIC/ Reuters, Bloomberg