Trên thị trường năng lượng, giá dầu diễn biến trái chiều sau khi Fed hạ lãi suất.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 4/2020 tăng 0,43 USD lên 47,18 USD/thùng; trái lại, dầu Brent kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 0,04 USD, xuống 51,86 USD/thùng.
Ngày 3/3, Fed thông báo hạ lãi suất 0,5 điểm phần trăm xuống 1-1,25% nhằm ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của dịch viêm đường hô hấp cấp (Covid-19) đối với nền kinh tế nước này. Đây là mức giảm lãi suất lớn nhất của Fed kể từ năm 2008. Tuyên bố của Fed nêu rõ dịch Covid-19 gây nguy cơ ngày càng lớn đối với hoạt động kinh tế và Fed đang giám sát chặt chẽ các diễn biến và tác động của dịch đối với triển vọng kinh tế Mỹ. Động thái của Fed như một dấu hiệu cho thấy tình hình nghiêm trọng hơn so với suy nghĩ của mọi người.
Phiên liền trước (2/3), giá dầu đã tăng mạnh nhờ hy vọng Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các nước đối tác cắt giảm sản lượng mạnh hơn.
Bộ trưởng Dầu mỏ Algeria cho biết tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất đồng minh gồm cả Nga sẽ xem xét giảm sản lượng dầu đáng kể để nâng giá dầu. Một số thành viên OPEC đang cân nhắc cắt giảm sản lượng có thể là 1 triệu thùng/ngày.
Theo thăm dò của Reuters, dự trữ dầu thô tại Mỹ, nhà sản xuất và tiêu thụ dầu thô lớn nhất thế giới, dự kiến tăng 3,3 triệu thùng, tăng tuần thứ 6 trong khi tồn kho sản phẩm đã lọc dự báo giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh sau khi Fed bất ngờ thông báo hạ lãi suất nhằm ứng phó tác động của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế của Mỹ.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 2,9% lên 1.636,25 USD/ounce, là phiên tăng giá mạnh nhất theo phần trăm kể từ tháng 6/2017; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 đóng cửa tăng 3,1% lên 1.644,4 USD/ounce.
Vàng trở nên hấp dẫn người mua trong điều kiện lãi suất thấp. Ngoài ra, giá vàng tăng do kinh tế toàn cầu yếu đi. Một yếu tố khác cũng hỗ trợ giá vàng là việc đồng USD xuống giá. Chỉ số USD, đo giá trị của đồng tiền này so với sáu đồng tiền mạnh khác, giảm 0,22%, xuống 97,15. Giá vàng thường có xu hướng ngược chiều với đồng USD, có nghĩa khi đồng tiền này xuống giá, giá vàng sẽ tăng, do vàng được định giá theo đồng USD sẽ trở nên rẻ hơn với những nhà đầu tư mua bằng các đồng tiền khác.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 5/2020 tăng 44,9 US cent, hay 2,68%, lên 17,188 USD/ounce; bạch kim giao tháng 4/2020 tăng 9,9 USD, hay 1,15%, lên 869,3 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khỏi mức cao nhất trong vòng hơn 1 tuần mặc dù Fed cắt giảm lãi suất là động lực kích thích nền kinh tế Mỹ. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,6% xuống 5.665 USD/tấn sau khi chạm 5.780,5 USD, cao nhất kể từ ngày 21/2.
Capital Economics dự báo giá đồng sẽ phục hồi trong nửa cuối năm nay và trở lại mức 6.200 USD vào cuối năm 2020. Hội nghị đồng thế giới CRU tại Tuần lễ Santiago và Cesco nằm trong số các cuộc họp mặt lớn nhất của các nhà khai thác đồng, đã bị hủy bỏ do lo ngại về rủi ro du lịch liên quan đến sự bùng phát của virus corona.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tiếp tục tăng do hy vọng Chính phủ hỗ trợ nền kinh tế trong nước bị thiệt hại bởi virus corona trong bối cảnh Brazil báo cáo xuất khẩu nguyên liệu thô sản xuất thép trong tháng 2 giảm 17,5% so với một tháng trước.
Giá quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,9% lên 644,5 CNY (92,37 USD)/tấn sau khi tăng khoảng 4,2% trong đầu phiên giao dịch này. Tuy nhiên, quặng sắt kỳ hạn trên sàn giao dịch Singapore giảm 0,8% xuống 85,37 USD/tấn bởi nhà đầu tư giảm kỳ vọng vào các biện pháp kích thích của G7 chống lại ảnh hưởng của sự bùng phát virus corona đối với nền kinh tế.
Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới đã ghi nhận hoạt động sản xuất sụt giảm mạnh nhất trong tháng 2 do sự bùng phát của virus corona. Chính sách tài chính và tiền tệ tích cực được hỗ trợ từ chính phủ có thể gây ra sự phục hồi trong nhu cầu thép trong nước, vốn bị suy yếu bởi đợt nghỉ Tết kéo dài và các biện pháp kiềm chế dịch bệnh.
Xuất khẩu quặng sắt của nhà cung cấp hàng đầu thế giới – Brazil - đạt tổng cộng 22,1 triệu tấn trong tháng 2, so với 26,79 triệu tấn trong tháng trước đó và 28,93 triệu tấn trong tháng 2/2019.
Theo SteelHome, quặng sắt nhập khẩu trữ tại các cảng của Trung Quốc đã giảm 3% trong năm nay và 13% từ một năm trước.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2020 đóng cửa tăng 6,6 US cent hay 5,7% lên 1.222 USD/lb lên mức cao nhất 7 tuần do thiếu hụt cà phê arabica chất lượng cao. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa tăng 40 USD hay 3,1% lên 1.331 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Quốc tế cho biết nguồn cung cà phê nhìn chung đủ để đáp ứng yêu cầu hiện nay, nhưng xuất hiện lo ngại về nguồn cung cà phê arabica chất lượng cao, giữa bối cảnh niên vụ 2021/2020 sẽ là năm sản lượng của Brazil sẽ thấp nếu tính theo chu kỳ.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 0,05 US cent hay 0,4% xuống 13,76 US cent/lb, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 7 tuần tại 13,62 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 5 giảm 2,7 USD hay 0,7% xuống 389,2 USD/tấn.
Thị trường nhận định các quỹ có thể tiếp tục giảm vị thế mua ròng đang hạn chế giá. Tuy nhiên, thị trường vẫn củng cố bởi nguồn cung hạn hẹp với thiếu hụt đáng kể trên toàn cầu trong niên vụ 2019/2020.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tăng gần 1% trong phiên qua theo xu hướng giá ở Thượng Hải. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 1,5 JPY hay 0,9% lên 174 JPY/kg. Giá cao su tại Thượng Hải tăng 0,7% lên 11.010 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 4/3 (giờ VN)
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
47,76
|
+0,58
|
+1,23%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
52,42
|
+0,56
|
+1,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
34.610,00
|
+20,00
|
+0,06%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,81
|
+0,01
|
+0,44%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
154,55
|
+1,42
|
+0,93%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
154,18
|
+0,88
|
+0,57%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
463,75
|
+3,50
|
+0,76%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
50.770,00
|
+40,00
|
+0,08%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.647,40
|
+3,00
|
+0,18%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.664,00
|
+144,00
|
+2,61%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,23
|
+0,04
|
+0,22%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,60
|
+0,90
|
+1,53%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
881,87
|
+2,18
|
+0,25%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.481,91
|
-21,22
|
-0,85%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
258,60
|
+1,30
|
+0,51%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.666,50
|
-33,50
|
-0,59%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.722,00
|
+5,00
|
+0,29%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
1.975,50
|
-47,50
|
-2,35%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.750,00
|
+125,00
|
+0,75%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
380,75
|
-0,50
|
-0,13%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
525,25
|
-2,00
|
-0,38%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
263,00
|
-1,50
|
-0,57%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,47
|
-0,06
|
-0,44%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
905,75
|
+2,25
|
+0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
310,50
|
+0,40
|
+0,13%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,24
|
+0,08
|
+0,27%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
464,10
|
-2,50
|
-0,54%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.653,00
|
-8,00
|
-0,30%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
122,20
|
+6,60
|
+5,71%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,76
|
-0,05
|
-0,36%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
98,35
|
-1,05
|
-1,06%
|
Bông
|
US cent/lb
|
62,77
|
-0,61
|
-0,96%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
406,30
|
-16,70
|
-3,95%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
171,40
|
-2,60
|
-1,49%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,29
|
+0,01
|
+0,55%
|
Nguồn:VITIC/ Reuters, Bloomberg