menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 12/7/2019: Giá dầu và vàng giảm, cà phê tăng

11:36 12/07/2019

Vinanet -Phiên 11/7/2019, giá dầu và vàng sụt giảm, trong khi giá đồng và cà phê tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) dự đoán nhu cầu dầu thô sẽ tăng chậm lại vào năm 2020.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 49 US cent xuống còn 66,52 USD/thùng, sau khi có thời điểm tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 30/5 là 67,65 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 23 UScent, kết thúc ở 60,20 USD/thùng, sau khi có thời điểm chạm mức “đỉnh” kể từ ngày 23/5 là 60,94 USD/thùng do tincác nhà sản xuất ở Mỹ cắt giảm khoảng 50% sản lượng tại Vịnh Mexico trước khả năng xảy ra cơn bão lớn đầu mùa.
Các công ty dầu của Mỹ đã cắt giảm sản lượng hơn 1 triệu thùng/ngày (53%) sản lượng ở Vịnh Mexico, khi bão nhiệt đới Barry đã tăng cường trong ngày 11/7.
Trước đó, trong báo cáo hàng tháng, OPEC đã đưa ra dự báo nhu cầu của thế giới đối với dầu thô từ 14 nước thành viên trong năm 2020 là 29,27 triệu thùng/ngày, giảm 1,34 triệu thùng/ngày so với năm 2019. Dự báo này mở ra khả năng tình trạng dư thừa nguồn cung có thể quay trở lại, bất chấp thỏa thuận cắt giảm sản lượng do OPEC dẫn dắt.
Giới đầu tư cũng đang dõi theo tình hình căng thẳng ở Trung Đông. Một ngày sau khi Iran cảnh báo Anh sẽ đối mặt với “những hậu quả” do bắt giữ tàu chở dầu của Tehran, Chính phủ Anh cho biết ba tàu của Iran đã tìm cách chặn tàu chở dầu của Anh đi qua Eo biển Hormuz, Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm sau khi đạt mức cao nhất 5 tuần do dự báo thời tiết trong 2 tuần tới ít nóng hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn New York giảm 2,8 US cent tương đương 1,1% xuống 2,416 USD/mBTU, rời khỏi mức cao nhất kể từ ngày 31/5/2019 trong 2 phiên liên tiếp.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm 1% trong phiên giao dịch ngày 11/7, sau khi số liệu lạm phát mạnh hơn dự đoán của Mỹ đã làm dấy lên hoài nghi về khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất mạnh như dự đoán.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 1% xuống còn 1.404,40 USD/ounce, trong khi giá vàng kỳ hạn giảm 0,4% và khép phiên ở mức 1.406,70 USD/ounce. Trước đó trong phiên này, giá vàng đã chạm mức cao nhất trong một tuần là 1.426 USD/ounce.
Giá vàng giao ngay đã có thời điểm giảm gần 15 USD sau khi số liệu giá tiêu dùng của Mỹ ghi nhận đà tăng mạnh nhất trong gần một năm rưỡi qua trong tháng Sáu, qua đó cho thấy lạm phát đang đi lên. Fed hồi tháng trước đã hạ dự báo lạm phát của Mỹ trong năm 2019 từ mức 1,8% đưa ra hồi tháng Ba xuống còn 1,5%.
Tuy nhiên, số liệu này có thể sẽ không làm thay đổi những đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng này. Giới đầu tư đang đón đợi cuộc họp ngày 30-31/7 của các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương Mỹ để tìm kiếm manh mối về khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ.
Trong tháng Sáu, giá vàng đã tăng lên mức cao nhất trong sáu năm, 1.438,63 USD/ounce, phần lớn là nhờ những đồn đoán về khả năng cắt giảm lãi suất của ngân hàng trung ương các nền kinh tế lớn trước những lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Là chỉ báo cho thấy tâm lý của nhà đầu tư, lượng vàng mà quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ đã tăng 0,8% trong phiên ngày 10/7.
Trong số những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống còn 15,10 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,8% và được giao dịch ở mức 818 USD/ounce, còn palađi giảm 1,7% xuống 1.561,86 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do đồng USD suy yếu sau khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell làm gia tăng kỳ vọng nới lỏng chính sách tiền tệ, song căng thẳng chiến tranh thương mại đã hạn chế đà tăng.
Giá đồng kỳ hạn trên sàn London tăng 0,3% lên 5.955 USD/tấn sau khi tăng 2% trong phiên trước đó.
Giá đồng tăng do đồng USD suy yếu, song mức tăng bị hạn chế do tăng trưởng chậm hơn tại Trung Quốc, với doanh số bán ô tô có khả năng giảm trong năm 2019. Các nhà kinh tế dự báo, tăng trưởng kinh tế của nước này giảm xuống mức thấp nhất gần 30 năm (6,2%) trong năm nay.
Người đứng đầu chiến lược hàng hóa Ole Hansen thuộc Saxo Bank cho biết: "Thị trường chứng khoán đạt mức cao mới, lợi suất trái phiếu theo xu hướng đồng USD suy giảm và điều này đã giúp giá đồng hồi phục lên mức hiện tại. Giá đồng dao động trong khoảng 5.800-6.100 USD/tấn, do đồng USD giảm khiến kim loại mua bằng đồng bạc xanh rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác".
Giá thép và quặng sắt tại Trung Quốc giảm phiên thứ 2 liên tiếp do nhu cầu yếu, chịu ảnh hưởng bởi doanh số bán ô tô giảm và triển vọng tăng trưởng kinh tế yếu tại nước tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới – Trung Quốc.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 0,2% xuống 4.017 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tại Thượng Hải giảm 0,4% xuống 3.874 CNY (564,44 USD)/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên giảm 1,2% xuống 866,5 CNY/tấn.
Hiệp hội ngành công nghiệp ô tô lớn nhất Trung Quốc cho biết, doanh số bán ô tô của nước này trong năm 2019 có khả năng sẽ giảm hơn nữa so với dự kiến tăng trưởng bằng 0, sau số liệu cho thấy lĩnh vực này giảm tháng thứ 12 liên tiếp trong tháng 6/2019. Dự kiến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong năm nay sẽ giảm xuống mức thấp nhất gần 30 năm (6,2%), bất chấp một loạt các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy nhu cầu nội địa trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Mỹ.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng do đồng real Brazil tăng mạnh, trong khi giá đường giảm.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE tăng 1,05 US cent tương đương 1% lên 1,0695 USD/lb. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 3 USD tương đương 0,2% xuống 1.427 USD/tấn.
Trong khi đó, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 0,12 US cent tương đương 1% xuống 12,38 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE giảm 3,7 USD tương đương 1,2% xuống 317,7 USD/tấn, sau khi giảm mạnh xuống mức thấp nhất 9 tháng (317 USD/tấn).
Giá lúa mì Mỹ tăng lên mức cao nhất trong hơn 1 tuần sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) giảm dự báo sản lượng lúa mì toàn cầu trong báo cáo cung cầu hàng tháng. Cụ thể, USDA giảm dự báo sản lượng lúa mì Nga, EU, Australia và Canada niên vụ 2019/20.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago tăng 16-3/4 US cent lên 5,21-1/2 USD/bushel sau khi đạt 5,23 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 1/7/2019.
Giá ngô giao cùng kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 9-1/4 US cent tương đương 1,8% lên 4,44-1/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Chicago tăng 4-1/2 US cent lên 8,99 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm sau khi tăng trong đầu phiên giao dịch do đồng ringgit tăng mạnh. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,4% xuống 1.930 ringgit (468,22 USD)/tấn, phiên giảm thứ 4 liên tiếp.
Đồng ringgit tăng 0,4% so với đồng USD và tăng 1,6% kể từ tháng 6/2019.
Giá cao su tại Tokyo duy trì vững trong bối cảnh lo ngại nguồn cung tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn TOCOM không thay đổi ở mức 177,2 JPY (1,64 USD)/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM tăng 2,5 JPY lên 153,1 JPY/kg. Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 0,4% lên 10.735 CNY (1.563,36 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

60,20

-0,23

 

Dầu Brent

USD/thùng

66,52

-0,49

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.200,00

-80,00

-0,19%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,40

-0,01

-0,50%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

199,66

+0,71

+0,36%

Dầu đốt

US cent/gallon

198,35

+0,49

+0,25%

Dầu khí

USD/tấn

594,50

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

60.120,00

-70,00

-0,12%

Vàng New York

USD/ounce

1.409,90

+3,20

+0,23%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.895,00

-23,00

-0,47%

Bạc New York

USD/ounce

15,17

+0,02

+0,13%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,80

-0,30

-0,56%

Bạch kim

USD/ounce

825,56

+1,66

+0,20%

Palađi

USD/ounce

1.559,46

-3,24

-0,21%

Đồng New York

US cent/lb

269,20

+0,45

+0,17%

Đồng LME

USD/tấn

5.955,00

+15,00

+0,25%

Nhôm LME

USD/tấn

1.828,00

-22,00

-1,19%

Kẽm LME

USD/tấn

2.428,00

+27,00

+1,12%

Thiếc LME

USD/tấn

18.345,00

+150,00

+0,82%

Ngô

US cent/bushel

447,50

-0,50

-0,11%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

521,00

-0,50

-0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

280,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

11,90

-0,03

-0,25%

Đậu tương

US cent/bushel

917,50

+0,25

+0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

318,70

-0,20

-0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,55

-0,10

-0,35%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

444,90

-2,30

-0,51%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.491,00

-18,00

-0,72%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,95

+1,05

+0,99%

Đường thô

US cent/lb

12,38

-0,12

-0,96%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

102,55

-0,70

-0,68%

Bông

US cent/lb

63,11

+0,03

+0,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

355,80

-11,20

-3,05%

Cao su TOCOM

JPY/kg

176,20

-1,00

-0,56%

Ethanol CME

USD/gallon

1,55

+0,04

+2,92%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters