Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu giữa bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung chưa thấy hồi kết.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Biển Bắc giảm 1,16 USD, hay 1,92% xuống còn 59,35 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 1,11 USD, hay 2,03% xuống 53,59 USD/thùng.
Washington và Bắc Kinh trong vòng đàm phán mới nhất đã vạch ra giai đoạn đầu của một thỏa thuận thương mại, đồng thời tạm hoãn kế hoạch tăng thuế dự kiến sẽ diễn ra trong tuần này. Tuy nhiên, các mức thuế hiện tại vẫn được áp dụng và các quan chức của cả Mỹ và Trung Quốc đều cho biết hai bên cần phải nỗ lực rất nhiều nữa mới có thể đạt được đồng thuận.
Tâm lý lạc quan rằng đàm phán thương mại Mỹ - Trung sẽ thành công đã giảm dần khi Trung Quốc cho rằng hai bên còn cần phải đàm phán thêm. Trong khi đó, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin cho biết vòng đánh thuế tiếp theo đối với hàng hóa Trung Quốc dự kiến vẫn sẽ có hiệu lực vào ngày 15/12 tới nếu hai bên không thể đi đến một thỏa thuận trước thời điểm đó.
Bên cạnh đó, giá dầu cũng chịu áp lực khi đồng USD tăng bởi những kỳ vọng ngày càng giảm về một thỏa thuận thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ngoài ra, những lo ngại về việc nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) không thỏa thuận đã làm giới đầu tư tìm đến các kênh đầu tư an toàn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng khi thị trường giảm hy vọng về thỏa thuận thương mại giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.493,33 USD/ounce, vàng giao sau tăng 0,6% lên 1.497,6 USD/ounce.
Trung Quốc muốn tổ chức thêm một vòng đàm phán nữa vào cuối tháng Mười trước khi Chủ tịch Tập Cận Bình đặt bút ký kết thỏa thuận thương mại mà Tổng thống Mỹ Donald Trump vạch ra; phía Mỹ cũng cho biết Mỹ có thể sẽ thực hiện một vòng đánh thuế bổ sung đối với hàng hóa Trung Quốc nếu hai bên không thể đạt được một thỏa thuận thương mại trước ngày 15/12 tới. Giới đầu tư cũng đang hướng sự chú ý đến cuộc họp thượng đỉnh giữa Liên minh châu Âu (EU) và Anh sẽ diễn ra tại Brussels trong tuần này. Hai bên vẫn có khả năng đi đến một thỏa thuận Brexit khi EU đang tỏ ra nhượng bộ hơn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,8% lên 17,67 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,1% và được giao dịch ở mức 890,12 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng ổn định do số liệu thương mại từ Trung Quốc, nước tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới làm gia tăng lo ngại rằng nhu cầu các kim loại công nghiệp sẽ yếu đi, trong khi các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung Quốc có tiến triển chậm.
Trên sàn London, giá đồng tăng 0,4% lên 5.818 USD/tấn. Giá kim loại này - được xem như như một chỉ số đánh giá sức khỏe nền kinh tế - đã giảm hơn 10% kể từ mức cao nhất trên 6.600 USD/tấn trong năm 2019.
Xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 9/2019 giảm trong khi nhập khẩu cũng giảm tháng thứ 5 liên tiếp, cho thấy thương mại tiếp tục suy yếu. Doanh số bán ô tô ở Trung Quốc trong tháng 9/2019 giảm 5,2% so với cùng tháng năm trước, là tháng thứ 15 liên tiếp giảm.
Giá sắt thép cũng giảm trong phiên vừa qua. Trên sàn Thượng Hải, thép thanh giảm 1,3% xuống 3.352 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 30/8/2019; thép cuộn cán nóng giảm 0,8% xuống 3.344 CNY/tấn, thấp nhất trong gần 7 tuần; chỉ riêng thép không gỉ đóng cửa tăng 0,1% lên 15.765 CNY/tấn.
Trên sàn Đại Liên, giá quặng sắt giảm mạnh do lo ngại về nhu cầu nguyên liệu sản xuất thép và những chính sách nhằm bảo vệ môi trường của Chính phủ Trung Quốc. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 2,4% xuống 638,5 CNY (90,41 USD)/tấn.
Đường Sơn, thành phố sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc, đã công bố quy định mới đối với hoạt động của các nhà máy, có hiệu lực từ 10/10 đến 31/10, để hạn chế ô nhiễm không khí. Linfen, một thành phố khác của Trung Quốc, cũng yêu cầu các nhà máy thép dừng hoạt động nung kết từ ngày 10/10. Việc hạn chế sản xuất thép như vậy có thể khiến nhu cầu quặng sắt giảm tại quốc gia sản xuất và tiêu thụ thép hàng đầu thế giới.
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 9/2019 tăng tháng thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất trong 20 tháng. Dự trữ quặng sắt tại Trung Quốc ở mức 129,95 triệu tấn tính tới ngày 14/10, theo ước tính mới nhất của SteelHome, cao nhất kể từ giữa tháng 5/2019.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,11 US cent hay 0,6% lên 12,52 US cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 lúc đóng cửa tăng 5,3 USD hay 1,6% lên 345,20 USD/tấn.
Thị trường dấy lên lo ngại sẽ thiếu hụt nguồn cung trong niên vụ 2019/20. JP Morgan trong báo cáo hàng quý đã duy trì triển vọng tăng giá do nguồn cung thắt chặt với dự kiến thiếu hụt 6,4 triệu tấn đường trong năm 2019/20.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 1,15 US cent hay 1,2% lên 94,85 US cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp 92,2 US cent/lb trong ngày 12/10. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 9 USD hay 0,7% lên 1.251 USD/tấn.
Đối với ngũ cốc, giá đậu tương của Mỹ tăng lên mức cao nhất gần 4 tháng bởi lo ngại rằng thời tiết giá lạnh vào cuối tuần nguy cơ ảnh hưởng tới cây trồng ở Midwest vào thời điểm nguồn cung đậu tương thắt chặt. Đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn giao dịch Chicago tăng 4-1/2 US cent lên 9,40-1/2 USD/bushel sau khi đạt 9,45-1/2 USD, mức cao nhất kể từ ngày 18/6, vào đầu phiên; lúa mì kỳ hạn tháng 12 tăng 3 US cent lên 5,11 USD/busel trong khi ngô kỳ hạn tháng 12 đóng cửa không đổi tại 3,97-3/4 USD/bushel, sau khi có lúc tăng lên 4,02-1/2 USD, cao nhất kể từ ngày 12/8.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,47
|
-0,12
|
-0,22%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
59,17
|
-0,18
|
-0,30%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.430,00
|
-160,00
|
-0,43%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,29
|
+0,01
|
+0,61%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
161,11
|
-0,21
|
-0,13%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
191,04
|
-0,47
|
-0,25%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
579,00
|
-0,25
|
-0,04%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.850,00
|
-140,00
|
-0,25%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.497,10
|
-0,50
|
-0,03%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.188,00
|
-2,00
|
-0,04%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,68
|
-0,04
|
-0,20%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,40
|
+0,30
|
+0,49%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
893,87
|
+0,51
|
+0,06%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.713,80
|
+0,14
|
+0,01%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
263,20
|
-0,20
|
-0,08%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.818,00
|
+22,00
|
+0,38%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.720,00
|
-2,00
|
-0,12%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.420,00
|
+1,00
|
+0,04%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.520,00
|
-5,00
|
-0,03%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
396,00
|
-1,75
|
-0,44%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
508,75
|
-2,25
|
-0,44%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
297,25
|
-0,50
|
-0,17%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,99
|
-0,07
|
-0,58%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
938,00
|
-2,50
|
-0,27%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
309,90
|
-1,00
|
-0,32%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,94
|
-0,06
|
-0,20%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
459,00
|
-0,90
|
-0,20%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.449,00
|
-57,00
|
-2,27%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
94,85
|
+1,15
|
+1,23%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,52
|
+0,11
|
+0,89%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,40
|
+2,00
|
+2,05%
|
Bông
|
US cent/lb
|
62,22
|
0,00
|
0,00%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
380,50
|
+11,10
|
+3,00%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
165,70
|
+2,30
|
+1,41%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,50
|
-0,01
|
-0,46%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg