menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 18/7/2019: Giá cà phê và vàng tăng, dầu giảm

11:23 18/07/2019

Vinanet -Phiên 17/7/2019 trên thị trường quốc tế (kết thúc vào rạng sáng 18/7/2019 giờ VN), giá dầu và một số kim loại công nghiệp giảm, trong khi vàng, cà phê, cao su… đi lên.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi dữ liệu cho thấy dự trữ các chế phẩm dầu mỏ hàng tuần của Mỹ tăng.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 8/2019 đã giảm 0,84 USD xuống 56,78 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao tháng 9/2019 cũng giảm 0,69 USD xuống 63,66 USD/thùng.
Theo Báo cáo Tình trạng Dầu mỏ hàng tuần do Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố hôm 17/7/2019, dự trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 3,1 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 12/7 xuống còn 455,9 triệu thùng. Tuy nhiên, mức đó vẫn cao hơn khoảng hơn 4% so với mức trung bình cùng thời điểm này 5 năm trước.
Mặc dù dự trữ dầu thô giảm song dự trữ các chế phẩm dầu mỏ của Mỹ lại tăng đáng kể. Tổng lượng dự trữ xăng đã tăng 3,6 triệu thùng trong tuần trước và dự trữ nhiên liệu chưng cất tăng 5,7 triệu thùng.
Giá dầu cũng mất đi sự hỗ trợ trong bối cảnh tiến trình đàm phán giữa Washington và Tehran có nhiều dấu hiệu khả quan. Ngày 16/7, trả lời phỏng vấn kênh truyền hình Mỹ NBC, Bộ trưởng Ngoại giao Iran Mohammad Javad Zarif tuyên bố Tehran sẵn sàng tham vấn với Washington, nếu các lệnh trừng phạt đã áp đặt chống Iran được dỡ bỏ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do đồng USD yếu và các chỉ số chứng khoán chủ chốt giảm điểm.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1,2% đạt 1.422,20 USD/ounce, trong khi đó vàng giao sau tăng 12,1 USD (0,86%) lên 1.423,30 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt, đã giảm 0,19% xuống 97,21 điểm. Khi đồng USD giảm thì giá vàng kỳ hạn thường tăng vì vàng, được định giá bằng đồng USD, trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Trong khi đó, chỉ số công nghiệp Dow Jones, S&P 500 và Nasdaq Composite đều giảm điểm khiến các nhà đầu tư quay sang giữ vàng để bảo toàn vốn.
Các số liệu cho thấy nền kinh tế Mỹ đang chậm lại, thị trường nhà đất đang suy yếu, do đó Fed rất có thể sẽ cắt giảm lãi suất. Điều này đã dẫn tới hoạt động bán tháo đồng bạc xanh, ép USD xuống giá, Phillip Streible, chiến lược gia hàng hóa cao cấp của RJO Futures cho biết.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 9/2019 đã tăng 29,3 US cent (1,87%) lên 15,971 USD/ounce lúc đóng cửa. Giá bạch kim giao tháng 10/2019 cũng tăng 0,2 USD (0,02%) lên 847,10 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khỏi mức cao nhất 2 tuần sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đe dọa sẽ áp thuế tiếp theo đối với Trung Quốc, một động thái có thể làm giảm nhu cầu đối với kim loại này trong khi tồn kho đồng tăng cao.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn LME đóng cửa giảm hơn 0,5% xuống còn 5.980 USD/tấn, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 1/7 trong phiên trước đó.
Ông Trump cho biết nếu Trung Quốc không thể thực hiện tốt lời hứa sẽ mua thêm hàng nông sản của Mỹ thì Washington có thể áp thuế đối với hàng hóa Trung Quốc trị giá hơn 325 tỷ USD.
Cuộc chiến thương mại giữa hai cường quốc đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ kim loại này.
Dự trữ đồng tại các kho ở LME đã tăng 8.500 tấn lên 276.025 tấn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2018, cho thấy nguồn cung trên thị trường đang dồi dào.
Giá nickel đang tăng cao trên cả thị trường London và Thượng Hải do hoạt động đầu cơ và lệnh ngừng xuất khẩu quặng nickel thô bắt đầu từ 2022 của Indonesia. Giá nickel trên sàn London kỳ hạn 3 tháng đã tăng 23% kể từ đầu tháng 6/2019 và hiện giao dịch ở mức 14.250 USD/tấn, mức cao nhất trong vòng một năm.
Indonesia đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu khoáng sản thô vào tháng 1/2014 với mục đích rõ ràng là buộc các công ty khai thác phải xây dựng năng lực tinh luyện trong nước.
Thị trường niken đã bị bất ngờ bởi tin này mặc dù luật này có từ 5 năm nay. Giá đã tăng lên mức cao nhất vào giữa năm 2014 là 21.625 USD/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Trung Quốc đã giảm 1,2% khỏi mức cao nhất kể từ 2013. Giá quặng sắt đóng cửa giảm 1,2% còn 899,5 CNY/tấn.
Tập đoàn khai thác quặng lớn nhất thế giới BHP cho biết sản lượng quặng sắt trong quý IV sẽ hồi phục sau cơn bão xảy ra hồi tháng 3 và dự báo tăng trưởng sản lượng khiêm tốn trong năm 2019/20. Giá thép thanh vằn xây dựng trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,3%. Giá thép cán nóng tăng 0,6%.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng cao do lo ngại thời tiết sương giá có thể ảnh hưởng tới chất lượng vụ cà phê tại Brazil. Giá cà phê Arabica giao tháng 9/2019 tăng 1,85 cent, tương đương 1,8%, đạt 1,074 USD/lb. Giá cà phê Robusta giao cùng kỳ hạn tăng 22 USD, tương đương 1,6%, đạt mức 1.423 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tại Chicago giảm phiên thứ năm liên tiếp xuống mức thấp nhất trong sáu tuần do lo ngại nguồn cung dư thừa toàn cầu sau những đợt giao hàng đường trắng với khối lượng lớn trước khi hợp đồng tháng 8 hết hạn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 tại Chicago giảm 0,2 cent, tương đương 1,7%, xuống còn 11,79 cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần là 11,76 cent vào đầu phiên giao dịch. Giá đường trắng giao tháng 10/2019 tại London giảm 2 USD, tương đương 0,6%, xuống còn 312,30 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo đã tăng hơn 1% theo xu hướng giá tăng tại Thượng Hải. Tại Tokyo, giá cao su giao tháng 12/2019 tăng 1,2% lên 180,5 JPY(1,67 USD)/kg. Giá cao su TSR 20 giao hàng tháng 1/2020 là 153,1 JPY/kg.
Trong khi đó, giá cao su giao tháng 9/2019 tại Thượng Hải tăng 0,5% lên 10.525 CNY(1.530,06 USD)/ tấn. Tại Singapore, giá cao su kỳ hạn tháng 8/2019 đạt 139,8 Uscent/kg, tăng 0,1%.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,78

-0,84

 

Dầu Brent

USD/thùng

63,66

-0,69

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.410,00

-730,00

-1,82%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,32

+0,01

+0,48%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

188,10

+0,23

+0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

189,58

+0,32

+0,17%

Dầu khí

USD/tấn

580,00

-3,00

-0,51%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.450,00

-880,00

-1,51%

Vàng New York

USD/ounce

1.427,30

+4,00

+0,28%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.922,00

+48,00

+0,98%

Bạc New York

USD/ounce

16,10

+0,13

+0,81%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,40

+1,20

+2,21%

Bạch kim

USD/ounce

850,27

+5,51

+0,65%

Palađi

USD/ounce

1.542,00

+4,84

+0,31%

Đồng New York

US cent/lb

270,95

-0,65

-0,24%

Đồng LME

USD/tấn

5.980,00

-32,00

-0,53%

Nhôm LME

USD/tấn

1.847,00

-3,00

-0,16%

Kẽm LME

USD/tấn

2.474,50

-7,50

-0,30%

Thiếc LME

USD/tấn

17.925,00

-75,00

-0,42%

Ngô

US cent/bushel

439,50

-2,00

-0,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

505,00

-0,50

-0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

280,75

-0,50

-0,18%

Gạo thô

USD/cwt

11,76

-0,05

-0,47%

Đậu tương

US cent/bushel

898,75

-1,75

-0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

313,30

-0,30

-0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,20

+0,09

+0,32%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

444,10

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.424,00

-5,00

-0,21%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

107,40

+1,85

+1,75%

Đường thô

US cent/lb

11,79

-0,20

-1,67%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

103,05

-1,65

-1,58%

Bông

US cent/lb

62,47

-0,02

-0,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

327,10

-5,30

-1,59%

Cao su TOCOM

JPY/kg

181,60

+1,10

+0,61%

Ethanol CME

USD/gallon

1,48

-0,04

-2,83%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters