Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng giữa bối cảnh các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đang cân nhắc liệu có nên cắt giảm thêm sản lượng tại cuộc họp sắp tới vào ngày 5-6/12 tới hay không và Trung Quốc thông báo về tiến trình đàm phán thương mại với Mỹ diễn ra thuận lợi.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent Biển Bắc tăng 74 US cent (1,3%) lên 59,70 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 85 US cent (1,6%) lên 54,16 USD/thùng.
Các nước trong và ngoài OPEC đang xem xét có hay không nên cắt giảm thêm sản lượng tại cuộc họp sắp tới vào ngày 5-6/12 tới do có nhiều lo ngại về nhu cầu yếu trong năm 2020. Các nhà giao dịch cho hay đồn đoán về việc cắt giảm nguồn cung đã đẩy giá dầu lên cao.
Trong khi đó, một quan chức Trung Quốc cho hay Washington và Bắc Kinh đã đạt được nhiều kết quả trong các cuộc đàm phán thương mại và những vấn đề tồn đọng có thể được giải quyết miễn là hai bên tôn trọng lẫn nhau.
Tuy nhiên, đà tăng của giá dầu trong phiên vừa qua bị hạn chế bởi dự báo lượng dầu dự trữ của Mỹ tăng và kinh tế thế giới tăng chậm lại.
Tuần trước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo rằng hậu quả từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và tranh chấp thương mại trên thế giới sẽ làm tăng trưởng toàn cầu trong năm 2019 chậm lại còn 3%, mức thấp nhất trong 10 năm qua. Tăng trưởng kinh tế yếu thường làm giảm nhu cầu hàng hóa như dầu.
Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho hay lượng dầu dự trữ tại các kho của nước này đã tăng 4,5 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 18/10. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố số liệu chính thức về tình hình nguồn cung trong ngày hôm nay, 23/10.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng ổn định khi giới đầu tư chờ đợi diễn biến tiến trình Brexit và quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay vững ở mức 1.484,60 USD/ounce, trong khi vàng giao sau cũng vững ở 1.487,5 USD/ounce.
Theo thông tin mới nhất, Thủ tướng Anh Boris Johnson đã giành được sự ủng hộ của các nghị sĩ đối với thỏa thuận Brexit mà ông đạt được với Liên minh châu Âu (EU) tuần trước trong cuộc bỏ phiếu vào tối 22/10 tại Hạ viện Anh, nhưng ông cũng ngay lập tức phải chịu thất bại khi các nghị sĩ bác nỗ lực của ông nhằm đưa Anh ra khỏi EU vào ngày 31/10 tới.
Trong khi đó, các nhà đầu tư cũng đang chờ đợi cuộc họp chính sách diễn ra vào cuối tháng này của Fed để có được manh mối rõ ràng hơn về việc cắt giảm lãi suất trong năm nay. Nhiều nhà giao dịch nhận thấy có tới 89% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất khoảng 25 điểm cơ bản tại cuộc họp sắp tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,5% xuống 17,48 USD/ounce, giá palađi giảm nhẹ 0,1% xuống 1.756,03 USD/ounce, trong khi đó giá bạch kim tăng 0,3% lên 890,50 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép biến động thất thường. Thép thanh dùng trong xây dựng (kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch Thượng Hải) tăng 0,7% lên 3.318 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng dùng trong sản xuất ô tô và đồ gia dụng tăng 0,6% lên 3.313 CNY/tấn, trong khi thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,03% xuống 14.895 CNY/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng phiên thứ 3 liên tiếp bởi lo ngại về nguồn cung, sau khi một trong những mỏ của hãng khổng lồ Vale SA phải tạm dừng khai thác để xử lý đập nước và hãng này thông báo kế hoạch giảm xuất khẩu trong năm nay. Xuất khẩu quặng sắt của Brazil trong tuần kết thúc vào 20/10 đã giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu của Mysteel.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên có lúc tăng 1,3% lên 619 CNY (87,54 USD)/tấn, kết thúc phiên ở mức tăng 0,8% đạt 616 CNY/tấn. Quặng sắt nhập khẩu hàm lượng 62% vững ở 86,5 USD/tấn.
Tuy nhiên, giá không tăng mạnh bởi nhu cầu của Trung Quốc yếu đi trong mùa Thu – Đông, khi hoạt động xây dựng chậm lại và có thể phải thực hiện nhiều quy định hạn chế để kiểm soát chất lượng không khí.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng trong phiên vừa qua, với arabica kỳ hạn tháng 12 năm nay tăng 2,55 US cent tương đương 2,7% lên 98,9 US cent/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 4 USD tương đương 0,3% lên 1.248 USD/tấn.
Trái lại, đường và cacao giảm. Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 0,09 US cent (0,7%) xuống 12,18 US cent/lb, trong phiên có lúc xuống chỉ 12,1 US cent – thấp nhất 1 tháng; trong khi đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 1,5 USD (0,4%) xuống 335,8 USD/tấn.
Trong những ngày qua, thị trường dấy lên lo ngại về triển vọng nhu cầu yếu, tồn trữ cao và sản lượng của Ấn Độ niên vụ 2020/21 có thể tăng. Nhiều người có chung nhận định rằng sản lượng của Ấn Độ vụ 2019/20 có thể giảm nhưng năm 2020/21 sẽ được cải thiện.
Giá cacao đã giảm xuống mức thấp nhất nhiều tuần trong phiên vừa qua do lo ngại nhu cầu yếu đi trong khi Bờ Biển Ngà bắt đầu vào vụ thu hoạch chính. Kết thúc phiên, cacao kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London giảm 6 GBP xuống 1.834 GBP/tấn, sau khi có lúc chỉ 1.824 GBP – thấp nhất trong vòng một tháng. Cacao kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York cũng giảm 26 USD tương đương 1,1% xuống 2.448 USD/tấn.
Giá đậu tương Mỹ tăng trong phiên vừa qua bởi hy vọng sẽ ký được hợp đồng mới để xuất khẩu sang Trung Quốc sau khi Bắc Kinh thông báo miễn thuế cho hạn ngạch nhập khẩu 10 triệu tấn đậu tương Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch đêm qua, đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago tăng 3/4 US cent lên 9,34 USD/bushel, trước đó trong cùng phiên có lúc giá đạt 9,45-1/4 USD.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
54,16
|
+0,85
|
+1,59%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
59,70
|
+0,74
|
+1,26%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.990,00
|
-70,00
|
-0,19%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,29
|
+0,01
|
+0,57%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
160,45
|
-0,44
|
-0,27%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
194,01
|
-0,36
|
-0,19%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
593,00
|
+11,00
|
+1,89%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.390,00
|
+40,00
|
+0,07%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.487,5
|
0
|
0
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.172,00
|
-19,00
|
-0,37%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,55
|
+0,05
|
+0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,60
|
-1,10
|
-1,78%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
891,45
|
-0,13
|
-0,01%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.753,04
|
-3,11
|
-0,18%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
263,45
|
+0,15
|
+0,06%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.818,00
|
-10,00
|
-0,17%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.719,00
|
-10,00
|
-0,58%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.467,50
|
-5,50
|
-0,22%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.850,00
|
+75,00
|
+0,45%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
388,00
|
+0,75
|
+0,19%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
518,00
|
-5,50
|
-1,05%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
296,75
|
+8,25
|
+2,86%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,97
|
-0,10
|
-0,83%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
934,00
|
+0,75
|
+0,08%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
306,90
|
-0,80
|
-0,26%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,85
|
+0,37
|
+1,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
462,10
|
+2,10
|
+0,46%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.448,00
|
-26,00
|
-1,05%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
98,90
|
+2,55
|
+2,65%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,18
|
-0,09
|
-0,73%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
101,20
|
+0,05
|
+0,05%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,67
|
+0,11
|
+0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
395,80
|
-1,80
|
-0,45%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
165,80
|
0,00
|
0,00%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,42
|
+0,00
|
+0,14%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg