Trên thị trường năng lượng, giá dầu Brent giảm mạnh do những lo ngại về tăng trưởng toàn cầu sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump hồi tuần trước đe dọa áp thêm thuế lên hàng hóa Trung Quốc, trong khi dầu WTI giảm ít hơn nhờ thông tin tích cực về lượng dầu dự trữ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 2,08 USD (3,36%) xuống 59,81 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm 97 US cent (1,74%) xuống 54,69 USD/thùng.
Trung Quốc là nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo sẽ áp thuế 10% lên lượng hàng hóa nhập khẩu trị giá 300 tỷ USD từ Trung Quốc bắt đầu từ ngày 1/9 tới đồng thời cảnh báo sẽ tiếp tục tăng thuế nếu Trung Quốc không nhanh chóng tiến tới ký kết một thỏa thuận thương mại, ngày 2/8 Trung Quốc cho biết sẽ có hành động đáp trả quyết định của Mỹ. Động thái này đã đặt dấu chấm hết cho thỏa thuận “đình chiến” thương mại mới chỉ đạt được một tháng trước đó. Bên cạnh đó, ngày 5/8, đồng NDT đã để mất ngưỡng 7 NDT/USD lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua. Đồng NDT thấp làm tăng chi phí nhập khẩu dầu, vốn được giao dịch bằng đồng USD.
Dấu hiệu xuất khẩu dầu gia tăng từ Mỹ cũng gây sức ép lên giá mặt hàng này trong phiên vừa qua. Cục Thống kê Mỹ ngày 2/8/2019 công bố số liệu cho thấy xuất khẩu dầu của Mỹ đã tăng khoảng 260.000 thùng/ngày trong tháng Sáu lên mức cao kỷ lục theo tháng là 3,16 triệu thùng/ngày.
Tuy nhiên, số liệu từ công ty nghiên cứu thị trường Genscape cho biết dự trữ dầu tại Cushing, Oklahoma, trung tâm dự trữ và trung chuyển dầu WTI chính, đã giảm gần 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 2/8/2019. Mức chênh lệnh giữa giá dầu Brent và giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) đã được thu hẹp xuống mức 5,15 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2018.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 38 tháng sau khi sản lượng cuối tuần qua tăng lên mức cao kỷ lục và nguồn cung xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của nước này suy giảm. Khí tự nhiên hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn New York giảm 5,1 US cent tương đương 2,4% xuống 2,070 USD/mBTU, thấp nhất kể từ ngày 26/5/2016 trong ngày thứ 2 liên tiếp.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong hơn sáu năm khi diễn biến xấu đi trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung thôi thúc các nhà đầu tư đổ tiền vào các tài sản an toàn.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1,7% lên 1.464,72 USD/ounce, sau khi có lúc đạt 1.469,60 USD/ounce, mức cao nhất kể từ tháng 5/2013. Trong khi đó, giá vàng giao sau tăng 1,3% lên mức 1.476,50 USD/ounce.
Michael Matousek thuộc U.S. Global Investors nhận định mối lo ngại về các mức thuế nói trên và các biện pháp trả đũa của Trung Quốc là những nhân tố hỗ trợ giá vàng. Theo ông Matousek, bất ổn liên quan tới kinh tế toàn cầu, nguy cơ về một cuộc chiến tiền tệ cũng tạo đà đi lên cho vàng. Ông Matousek dự báo giá kim loại quý này có thể chạm mốc 1.500 USD/ounce vào tháng 11-12/2019 và sẽ duy trì ở ngưỡng này.
Trong phiên vừa qua, đồng USD đã trượt xuống mức thấp trong gần hai tuần so với rổ tiền tệ, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác. Song, đồng bạc xanh lại tăng giá so với đồng nhân dân tệ của Trung Quốc.
Việc đồng CNY giảm xuống mức thấp nhất 11 năm có thể khiến một số người dân Trung Quốc tăng cường mua vàng khi đồng NDT yếu hơn so với đồng USD. Sàn giao dịch vàng Thượng Hải cho biết họ sẽ tăng yêu cầu ký quỹ đối với hợp đồng vàng AU (T + N2). Giới hạn giao dịch trên hợp đồng cũng sẽ được nâng lên.
Tại Ấn Độ, nhập khẩu vàng trong tháng 7/2019 đã giảm 55% so với cùng kỳ năm trước xuống mức thấp nhất trong ba năm khi giá tại thị trường trong nước lên mức cao kỷ lục.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm, cũng do tác động của chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang, trong khi giá nickel tăng do lo ngại nguồn cung từ Indonesia.
Giá đồng kỳ hạn trên sàn London giảm 0,8% xuống 5.685 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 5.640 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 6/2017; giá nickel giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 3% lên 14.880 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm xuống dưới ngưỡng 100 USD/tấn do dự trữ tăng, trong khi nhu cầu tại thị trường tiêu thụ nguyên liệu sản xuất thép lớn nhất và cũng là nước sản xuất hơn 1/2 nguồn cung thép thế giới này có thể giảm hơn nữa.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 6% xuống 689,5 CNY (98,09 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 5/7/2019.
Dự trữ quặng sắt nhập khẩu tại các cảng của Trung Quốc tăng tuần thứ 3 liên tiếp lên 121,05 triệu tấn, cao nhất kể từ ngày 6/6/2019 do các nhà cung cấp từ Brazil và Australia thúc đẩy xuất khẩu.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 1,4% xuống 3.753 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 18/6/2019. Giá thép cán nóng giảm 1,4% xuống 3.688 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 20/6/2019.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 0,3 US cent tương đương 2,7% xuống 11,79 US cent/lb, sau khi có lúc xuống mức thấp nhất 2 tuần là 11,69 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 5,8 USD tương đương 1,8% xuống 317,90 USD/tấn.
Giá cà phê chạm mức thấp nhất 1,5 tháng do đồng real Brazil giảm so với đồng USD và các nhà đầu tư tập trung vào dư cung, trong khi giá đường giảm. Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE giảm 3,4 US cent tương đương 3,4% xuống 94,75 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm mức thấp 94,3 US cent/lb. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 18 USD tương đương 1,4% xuống 1.294 USD/tấn.
Đồng thời, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 0,3 US cent tương đương 2,7% xuống 11,7 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 11,69 US cent/lb, thấp nhất gần 2 tuần. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 5,8 USD tương đương 1,8% xuống 317,9 USD/tấn.
Giá đậu tương kỳ hạn trên sàn Chicago chạm mức thấp nhất kể từ ngày 12/6/2019, sau khi giảm hơn 3% trong tuần trước đó do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Giá ngô tại Mỹ tăng do sự không chắc chắn trong dự báo thời tiết tại nước này đã hỗ trợ giá ngô. Giá ngô kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 5-1/4 US cent lên 4,14-3/4 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 3-3/4 US cent lên 4,94-1/2 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng hơn 1% lên mức cao nhất 2 tháng do giá các loại dầu thực vật liên quan tăng mạnh trở lại và đồng ringgit suy yếu.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 1,1% lên 2.085 ringgit (499,58 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch tăng 1,3% lên 2.088 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 31/5/2019.
Giá cao su tại Tokyo giảm do cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM giảm 2,3 JPY (0,0217 USD) xuống 166,2 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn TOCOM giảm 3,6 JPY xuống 144,4 JPY/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 135 CNY (19,21 USD) xuống 10.280 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
54,69
|
-0,97
|
-1,74%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
59,81
|
-2,08
|
-3,36%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.870,00
|
-140,00
|
-0,38%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,09
|
+0,02
|
+1,06%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
172,55
|
+0,75
|
+0,44%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
185,27
|
+1,71
|
+0,93%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
566,00
|
+1,25
|
+0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.830,00
|
-40,00
|
-0,07%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.478,30
|
+1,80
|
+0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.988,00
|
+44,00
|
+0,89%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,47
|
+0,08
|
+0,47%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
55,70
|
-0,30
|
-0,54%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
855,49
|
-0,07
|
-0,01%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.426,79
|
+4,05
|
+0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
255,35
|
+0,95
|
+0,37%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.685,00
|
-44,50
|
-0,78%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.763,00
|
-7,00
|
-0,40%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.311,00
|
-39,00
|
-1,66%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.905,00
|
-75,00
|
-0,44%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
415,50
|
+0,75
|
+0,18%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
493,25
|
-1,25
|
-0,25%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
267,75
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,41
|
-0,02
|
-0,22%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
870,50
|
+1,75
|
+0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
301,90
|
-0,40
|
-0,13%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,36
|
+0,10
|
+0,35%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
443,00
|
-1,80
|
-0,40%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.346,00
|
-15,00
|
-0,64%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
95,65
|
-2,50
|
-2,55%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,82
|
-0,20
|
-1,66%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
98,50
|
-0,70
|
-0,71%
|
Bông
|
US cent/lb
|
58,39
|
-0,09
|
-0,15%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
358,00
|
-10,00
|
-2,72%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
164,40
|
-1,80
|
-1,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,45
|
-0,01
|
-0,48%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters
Nguồn:Vinanet