Năng lượng: Giá dầu giảm
Tuần qua, giá dầu Brent giảm khoảng 0,4%, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm khoảng 0,8%, bất chấp tăng ở phiên cuối tuần.
Trong phiên 1/11/2019 (kết thúc vào rạng sáng 2/11 giờ VN), giá dầu tăng khá mạnh, thêm 4%, do những tiến triển tích cực trong các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Chốt phiên này, giá dầu Brent tăng 2,07 USD (3,5%) lên 61,69 USD/thùng, dầu WTI tăng 2,02 USD (3,7%) lên 56,20 USD/thùng.
John Kilduff, đối tác của Again Capital Management ở New York (Mỹ) nhận định thị trường dầu mỏ đã phản ứng mạnh mẽ với những tiến triển trong đàm phán thương mại Mỹ-Trung, vốn được dự đoán sẽ cải thiện đáng kể triển vọng cho kinh tế toàn cầu.
Ngày 1/11, Trung Quốc và Mỹ đều thông báo đạt tiến triển hướng tới việc hoàn tất "giai đoạn 1" thỏa thuận thương mại song phương, sau gần 16 tháng áp thuế quan trả đũa qua lại khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại.
Tân Hoa Xã dẫn lời Phó Thủ tướng kiêm Trưởng đoàn đàm phán thương mại Trung Quốc Lưu Hạc cho hay, ông này đã có cuộc điện đàm với Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer và Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin trong ngày 1/11. Hai bên đã tiến hành thảo luận "nghiêm túc và mang tính xây dựng" về những vấn đề thương mại "cốt lõi" và đạt được đồng thuận về mặt nguyên tắc. Bên cạnh đó, hai bên cũng thảo luận về việc thu xếp cuộc tham vấn tiếp theo.
Tuy nhiên, thị trường dầu mỏ cũng chịu tác động từ nhiều yếu tố khác, trong đó có số liệu công nghiệp yếu kém của Trung Quốc và tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng.
Kết quả một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy giá dầu sẽ vẫn chịu sức ép trong năm nay và năm tới. Theo kết quả khảo sát, 51 nhà kinh tế dự báo giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 64,16 USD/thùng năm 2019 và 62,38 USD/thùng năm 2020.
Kim loại quý: Giá vàng tăng 0,4% trong tuần dù giảm ở phiên cuối tuần
Phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.508,61 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,2% xuống 1.511,40 USD/ounce. Mặc dù vậy, tính chung cả tuần giá vẫn tăng 0,4% nhờ tăng ở một số phiên trước đó.
Nhà phân tích Jonathan Butler của công ty tư vấn tài chính Mitsubishi cho biết hiện giá vàng đang chịu áp lực từ một loạt những số liệu kinh tế tích cực.
Thống kê mới nhất công bố ngày 1/11 cho thấy tăng trưởng việc làm tại Mỹ trong tháng 10 đã “hạ nhiệt” ít hơn dự kiến, còn việc tuyển dụng trong hai tháng Tám và Chín được điều chỉnh mạnh hơn so với ước tính ban đầu. Điều này đảm bảo rằng người tiêu dùng Mỹ sẽ tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế đi lên trong thời gian tới.
Chuyên gia Butler cho rằng kim loại quý này sẽ phải chật vật để tìm hướng đi tiếp theo, khi rất khó để xác định những yếu tố hỗ trợ đà tăng cho giá vàng khi Fed có thể sẽ giữ lãi suất ở mức hiện tại trong một thời gian nữa sau khi đã hạ lãi suất lần thứ ba trong năm nay tại cuộc họp ngày 30/10. Lãi suất hạ thường làm giảm chi phí cơ hội khi giữ vàng không sinh lời nhưng lại gây áp lực khiến đồng USD yếu đi.
Tuy nhiên, khi xét về triển vọng chung của vàng, nhà phân tích thị trường cấp cao Edward Moya của công ty tư vấn OANDA cho rằng xu hướng vẫn khá tích cực khi thị trường kim loại quý này nhiều khả năng sẽ củng cố trước khi tăng thêm nữa. Chuyên gia này chỉ ra rằng thị trường vẫn còn những hoài nghi về cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung cũng như nhiều nhà đầu tư thận trọng chưa muốn “nhảy” sang thị trường chứng khoán.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm
Phiên cuối tuần, giá đồng tăng do có sự điều chỉnh tăng các số liệu về sản xuất của Trung Quốc và việc làm của Mỹ, song sự không chắc chắn về tăng trưởng toàn cầu và căng thẳng thương mại tiếp tục gây áp lực thị trường.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,9% lên 5.850 USD/tấn, sau khi giảm mạnh 1,9% trong phiên trước đó, song tính chung cả tuần vẫn giảm. Giá nhôm trên sàn London cùng phiên tăng 1,8% lên 1.786 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.790 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 23/9/2019 và là ngày tăng mạnh nhất trong gần 3 tháng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 0,6% lên 625,5 CNY (88,88 USD)/tấn, sau khi giảm 1,2% lúc đầu phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 0,8%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,2%, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 0,3% và thép không gỉ giảm 0,1%.
Nông sản: Giá đường, cà phê và cao su đều tăng trong tuần qua
Trong phiên cuối tuần, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,11 US cent tương đương 0,9% xuống 12,37 US cent/lb do tồn trữ ở mức cao; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London tăng 0,2 USD tương đương 0,1% lên 338,6 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE tăng 0,75 US cent tương đương 0,7% lên 1,027 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London giảm 5 USD tương đương 0,4% xuống 1.317 USD/tấn.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng do ký được hợp đồng bán cho Trung Quốc và kỳ vọng mới trong tiến triển các cuộc đàm phán nhằm giải quyết cuộc chiến thương mại. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 0,48% lên 9,36-3/4 USD/bushel; lúa mì kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 1,18% lên 5,16 USD/bushel, trong khi ngô kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,38% xuống 3,89-1/4 USD/bushel.
Đối với mặt hàng dầu cọ, giá tăng do nguồn cung thiếu hụt và xuất khẩu của Malaysia mạnh. Dầu cọ kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng lên 2.493 ringgit (597,84 USD)/tấn.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng ở Thượng Hải. Hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM giảm 2,4 JPY (0,0222 USD) xuống 172,1 JPY/kg; kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 120 CNY (17,05 USD) xuống 11.885 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 26/10
|
Giá 2/11
|
2/11 so với 1/11
|
2/11 so với 1/11 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,66
|
56,20
|
+2,02
|
+3,73%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
62,02
|
61,69
|
+2,07
|
+3,47%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.830,00
|
38.160,00
|
+1.420,00
|
+3,87%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,30
|
2,71
|
+0,08
|
+3,08%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
167,30
|
165,57
|
+6,11
|
+3,83%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
197,96
|
193,31
|
+5,73
|
+3,05%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
597,75
|
578,00
|
+11,00
|
+1,94%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.950,00
|
55.400,00
|
+1.690,00
|
+3,15%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.505,30
|
1.511,40
|
-3,40
|
-0,22%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.245,00
|
5.250,00
|
+21,00
|
+0,40%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,93
|
18,05
|
-0,01
|
-0,08%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
63,40
|
62,90
|
+0,20
|
+0,32
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
925,80
|
950,24
|
+17,48
|
+1,87%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.765,87
|
1.807,90
|
+10,35
|
+0,58%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
267,55
|
265,30
|
+1,50
|
+0,57%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.925,00
|
5.850,00
|
+53,00
|
+0,91%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.728,00
|
1.786,00
|
+31,00
|
+1,77%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.510,00
|
2.520,00
|
+37,50
|
+1,51%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.675,00
|
16.525,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
386,75
|
389,25
|
-0,75
|
-0,19%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
517,75
|
516,00
|
+7,25
|
+1,43%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
302,50
|
306,00
|
+8,75
|
+2,94%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,05
|
11,99
|
-0,04
|
-0,29%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
934,50
|
936,75
|
+4,50
|
+0,48%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
303,30
|
303,90
|
-0,50
|
-0,16%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,96
|
31,03
|
+0,28
|
+0,91%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
463,40
|
458,20
|
+0,80
|
+0,17%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.483,00
|
2.501,00
|
+55,00
|
+2,25%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
99,45
|
104,00
|
+2,05
|
+2,01%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,35
|
12,48
|
0,00
|
0,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
101,20
|
99,10
|
+0,25
|
+0,25%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,90
|
64,23
|
-0,21
|
-0,33%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
410,00
|
412,80
|
+7,00
|
+1,73%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
167,60
|
172,90
|
+0,80
|
+0,46%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,44
|
1,45
|
+0,02
|
+1,33%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg