menu search
Đóng menu
Đóng

TT hàng hoá quốc tế phiên 18/8: Giá vàng tăng tiếp, dầu vững

11:51 19/08/2020

Phiên giao dịch vừa qua, giá vàng lại vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu gần như không thay đổi vào lúc đóng cửa phiên giao dịch vừa qua do nhà đầu tư chờ đợi số liệu về dự trữ dầu thô của Mỹ. Cụ thể, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10/2020 vững ở 42,89 USD/thùng; trong khi dầu Brent giao cùng kỳ hạn tăng 9 US cent lên 45,56 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự kiến sẽ công bố báo cáo tình hình xăng dầu hàng tuần trong ngày 19/8. Các nhà phân tích tham gia cuộc khảo sát của S&P Global Platts nhận định, số liệu của EIA sẽ cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 3,8 triệu thùng trong tuần trước.
Giá dầu thô đã nhận được sự hỗ trợ từ thông tin cho thấy mức tuân thủ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nước sản xuất liên minh (OPEC+) là 95-97% trong tháng 7/2020. OPEC+ sẽ tổ chức một cuộc họp hội đồng bộ trưởng trong ngày 19/8.
Trong khi đó, Quốc hội Mỹ cho đến nay chưa đồng ý về một gói cứu trợ tài chính thêm nữa để ngăn chặn suy thoái kinh tế do đại dịch. Một số quốc gia Châu Âu đã gia hạn việc kiểm dịch du lịch, điều này ảnh hưởng tới nhu cầu nhiên liệu bay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng do USD giảm xuống mức thấp nhất kể từ 2018 và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm trở lại, ghi dấu ngày giảm thứ hai liên tiếp.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 2.004,21 USD/ounce, sau khi đạt cao nhất một tuần tại 2.014,97 USD; vàng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 0,7% lên 2.013,1 USD.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi biên bản cuộc họp chính sách mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến công bố ngày 19/8.
Giá vàng đã tăng 32% trong năm nay do các gói kích thích kinh tế toàn cầu chưa từng có làm dấy lên lo ngại về lạm phát và đồng tiền giảm giá.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trong thứ 3 liên tiếp, chạm mức cao nhất trong gần 4 tuần, bởi lạc quan về sự phục hồi kinh tế tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới và bởi USD yếu đi khiến cho các kim loại trên sàn LME rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 2,1% lên 6.578 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 22/7.
Số liệu kinh tế của Trung Quốc trong tháng này chỉ ra những dấu hiệu cải thiện, gồm doanh số bán ô tô đang tăng và hoạt động trở lại của nhà máy. Hoạt động luyện đồng trên toàn cầu tháng 7 sụt giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm, trong khi sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc giảm trong tháng 7 xuống mức thấp nhất kể từ tháng 3. Tồn trữ đồng LME giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm trong ngày 18/8 sau khi các kho sụt giảm liên tục.
Giá quặng sắt cũng tăng trong phiên vừa qua do dự đoán nhu cầu thép tại Trung Quốc sẽ vẫn mạnh trong những tháng tới và bù cho nhu cầu chậm chạp ở nước ngoài, trong lúc nguồn cung bị gián đoạn bởi đại dịch.
Cụ thể, quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa phiên tăng 3,5% lên 863 CNY (124,51 USD)/tấn, tăng phiên thứ 4 liên tiếp; quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Singapore tăng 3% lên 120,42 USD/tấn, tăng phiên thứ 3 liên tiếp. Giá quặng sắt hàm lượng 62% tại nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc tăng vọt lên mức cao nhất 13 tháng trong ngày 17/8, là 121,50 USD/tấn, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome.
Trong khi đó, giá thép không gỉ tại Thượng Hải tăng 2,2% do nhu cầu mạnh và giá nicken để sản xuất thép không gỉ đắt hơn trong bối cảnh nguồn cung hạn hẹp; gía thép thanh ở Thượng Hải tăng 0,7%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 1%.
Công ty khai thác quặng sắt BHG Group dự kiến hầu hết các nền kinh tế lớn ngoại trừ Trung Quốc sẽ phải gánh chịu suy thoái do virus corona trong năm nay, khi họ báo cáo lợi nhuận giảm hơn 4% trong năm.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giảm trong phiên qua sau khi chạm mức cao nhất 5 tuần trong phiên trước, do sản lượng ước tính tăng đối với mùa vụ ở Midwest làm giảm lo ngại về thiệt hại do bão ở vành đai trồng ngô.
Giá ngô được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 3 US cent xuống 3,41-3/4 USD/bushel; giá đậu tương giảm nhưng giữ gần mức cao nhất nhiều tháng do lo ngại thời tiết khô ở Midwest. Đậu tương đóng cửa giảm 1-1/2 US cent xuống 9,13-3/4 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 8-3/4 US cent xuống 5,17-1/2 USD/bushel.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 3,6 US cent hay 3,1% lên 1,2105 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 đóng cửa tăng 18 USD hay 1,3% lên 1.396 USD/tấn.
Các đại lý cho biết có một số giao dịch đóng hợp đồng bán do sự xuất hiện của khối không khí lạnh cực mạnh tại Brazil. Tuy nhiên rủi ro về sương giá với các đồn điền cà phê là nhỏ, theo các nhà dự báo địa phương.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa giảm 0,17 US cent hay 1,3% xuống 12,89 US cent/lb, thoái lui từ mức cao nhất 5 tháng tại 13,28 US cent đã đạt được trong ngày 14/8; đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 6,3 USD hay 1,7% xuống 373,4 USD/tấn.
Giá cao su Nhật Bản tăng do các nhà sản xuất tại nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này cho biết họ tự tin nhất trong tháng 8 về tình trạng kinh doanh 4 tháng. Cao su trên sàn giao dịch Osaka giao tháng 1/2021 đóng cửa tăng 0,4 JPY hay 0,2% lên 176,9 JPY/kg; cao su Thượng Hải giao tháng 1/2021 tăng 20 CNY lên 12.440 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 19/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,74

-0,15

-0,35%

Dầu Brent

USD/thùng

45,22

-0,24

-0,53%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.480,00

-140,00

-0,46%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,43

+0,01

+0,58%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

126,26

-2,04

-1,59%

Dầu đốt

US cent/gallon

125,69

-0,35

-0,28%

Dầu khí

USD/tấn

380,25

+0,25

+0,07%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.580,00

-1.020,00

-2,34%

Vàng New York

USD/ounce

2.010,70

-2,40

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.779,00

-4,00

-0,06%

Bạc New York

USD/ounce

28,15

-0,10

-0,35%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,30

-0,50

-0,53%

Bạch kim

USD/ounce

956,11

-5,09

-0,53%

Palađi

USD/ounce

2.189,85

-12,76

-0,58%

Đồng New York

US cent/lb

301,65

+2,50

+0,84%

Đồng LME

USD/tấn

6.567,50

+121,50

+1,88%

Nhôm LME

USD/tấn

1.773,50

+17,50

+1,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.458,50

+16,50

+0,68%

Thiếc LME

USD/tấn

17.600,00

+279,00

+1,61%

Ngô

US cent/bushel

340,25

-1,50

-0,44%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

520,50

+3,00

+0,58%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,50

-1,00

-0,38%

Gạo thô

USD/cwt

12,15

+0,04

+0,29%

Đậu tương

US cent/bushel

912,50

-1,25

-0,14%

Khô đậu tương

USD/tấn

302,30

-0,70

-0,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,85

-0,05

-0,16%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

487,00

-0,90

-0,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.445,00

+16,00

+0,66%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

121,05

+3,60

+3,07%

Đường thô

US cent/lb

12,89

-0,17

-1,30%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

121,90

+2,30

+1,92%

Bông

US cent/lb

63,19

+0,26

+0,41%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

754,00

+19,00

+2,59%

Cao su TOCOM

JPY/kg

176,50

-0,40

-0,23%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

-0,02

-1,53%

 

 

Nguồn:VITIC / Reuters, Bloomberg