Năng lượng: Giá dầu tăng nhẹ khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong khi đó OPEC giữ nguyên dự báo nhu cầu tăng trưởng tương đối mạnh trong năm 2024.
Kết thúc phiên, dầu thô Brent tăng 29 US cent, tương đương 0,4%, lên 81,92 USD/thùng, nối tiếp xu hướng tăng từ phiên trước do giảm bớt lo ngại về tình trạng dư cung t kể từ khi giá dầu Brent chạm 77,52 USD/thùng 1 tuần trước đó – thấp nhất kể từ tháng 2/2024. Dầu WTI tăng 16 US cent, tương đương 0,2%, lên 77,9 USD/thùng.
EIA nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2024 lên 1,1 triệu thùng/ngày (bpd) so với ước tính trước đó là tăng 900.000 bpd.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) duy trì dự báo nhu cầu dầu toàn cầu tăng trưởng tương đối mạnh, do kỳ vọng hoạt động du lịch gia tăng trong nửa cuối năm 2024.
Trong tháng này, OPEC và các đồng minh đã đồng ý gia hạn hầu hết các đợt cắt giảm sản lượng đến năm 2025, song sẽ dần dần loại bỏ việc cắt giảm trong suốt 1 năm kể từ tháng 10/2024.
Tim Evans, một nhà phân tích năng lượng độc lập cho biết: “Chúng tôi hiện đang xem xét ý tưởng rằng có thể nhu cầu sẽ tăng trong nửa cuối năm và thị trường có thể thực sự cần một số nguồn cung bổ sung của OPEC+”.
Evans nói thêm: “Thị trường đang trở nên bán quá mức… Chúng tôi đang nhận được một chút hiệu ứng ‘tấm bạt lò xo’”.
EIA cho biết sản lượng dầu thô của Mỹ năm 2024 dự kiến sẽ tăng hơn so với dự báo trước đó lên 13,24 triệu thùng – cao nhất từ trước tới nay.
Một cuộc thăm dò sơ bộ của Reuters cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ ước tính giảm hơn 1 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 7/6. Dữ liệu từ tập đoàn công nghiệp Viện Dầu khí Mỹ có vào thứ Ba và từ EIA vào thứ Tư.
Ngân hàng Thế giới cho biết nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ hơn mong đợi đã khiến họ nâng nhẹ triển vọng tăng trưởng toàn cầu năm 2024, nhưng cảnh báo sản lượng tổng thể cho đến năm 2026 sẽ vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước đại dịch.
Hầu hết dữ liệu kinh tế mạnh mẽ của Mỹ và lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu của Fed đã khiến thị trường tài chính hạn chế kỳ vọng chỉ có hai đợt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản trong năm nay, có thể bắt đầu vào tháng 9. Các nhà kinh tế cho biết thậm chí có nguy cơ lớn là chỉ có một hoặc không có đợt cắt giảm lãi suất nào vào năm 2024.
Dữ liệu giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 5 và kết quả cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của Fed sẽ có vào thứ Tư.
Nhà kinh tế trưởng Philip Lane của ECB hôm thứ Ba cho biết rằng Ngân hàng Trung ương Châu Âu nên kiên trì kiềm chế tăng trưởng kinh tế do áp lực lạm phát quá lớn và chờ đợi đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo cho đến khi sự bất ổn giảm bớt.
Các nhà giao dịch cũng thận trọng trước khi dữ liệu kinh tế vĩ mô từ Trung Quốc được công bố.
Xuất khẩu dầu thô của Saudi Arabia sang Trung Quốc giảm tháng thứ ba liên tiếp.
EIA cho biết các chuyến hàng dầu thô và sản phẩm dầu toàn cầu đi tuyến đường dài giữa châu Á, Trung Đông và phương Tây tăng 47% kể từ khi các cuộc tấn công bắt đầu nhằm vào các tàu sử dụng tuyến đường ngắn hơn trên Biển Đỏ.
Trong khi đó, Hamas đã chấp nhận một nghị quyết của Liên hợp quốc ủng hộ kế hoạch chấm dứt chiến tranh với Israel ở Gaza và sẵn sàng đàm phán chi tiết, một quan chức cấp cao của nhóm chiến binh Palestine cho biết, điều mà Ngoại trưởng Mỹ gọi là một dấu hiệu đầy hy vọng.
Kim loại quý: Giá vàng giảm khi các nhà đầu tư chờ đợi số liệu lạm phát quan trọng của Mỹ và thông báo chính sách của Cục Dự trữ Liên bang để biết tín hiệu khi nào ngân hàng trung ương sẽ cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 2.304,32 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2024 giảm 0,2% xuống 2.321,2 USD/ounce.
“Tôi nghi ngờ Fed đang bị trói tay sau báo cáo thị trường việc làm mạnh mẽ, vì nó có thể không cho phép họ đưa ra tín hiệu về đợt cắt giảm lãi suất vào tháng 9 mà các nhà giao dịch rất muốn nghe. Và điều đó có thể khiến vàng giảm thêm nữa trong bối cảnh lợi suất và USD cùng tăng", nhà phân tích cấp cao Matt Simpson của City Index cho biết.
Cùng với kết quả cuộc họp 2 ngày của Fed, báo cáo lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 5/2024 sẽ là điểm dữ liệu quan trọng tiếp theo.
Theo ông Simpson: “Thực tế là chúng ta sẽ thấy dữ liệu lạm phát chỉ vài giờ trước quyết định lãi suất của Fed, có nghĩa là chúng ta có thể thấy sự hoảng loạn vào phút cuối và mức độ biến động tăng cao nếu lạm phát trở nên nóng”.
Các dự báo kinh tế cập nhật từ các quan chức Fed trong tuần này dự kiến sẽ cho thấy số lần cắt giảm lãi suất ít hơn so với các nhà hoạch định chính sách dự đoán ba tháng trước trong bối cảnh lạm phát mạnh bất ngờ.
Dữ liệu việc làm mạnh mẽ của Mỹ và báo cáo rằng ngân hàng trung ương Trung Quốc đang ngừng mua vàng đã khiến vàng thỏi giảm khoảng 3,5%, tương đương 83 USD, vào thứ Sáu, mức giảm hàng ngày lớn nhất kể từ tháng 11 năm 2020.
Trung Quốc, nước mua vàng chính thức lớn nhất trong khu vực, dự kiến sẽ tiếp tục cuộc mua sắm vàng thỏi sau khi giá giảm từ mức cao kỷ lục đạt được vào tháng 5.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,9% xuống 29,21 USD mỗi ounce, bạch kim giảm 0,5% xuống 960,26 USD và palađi giảm 1,2% xuống 893,50 USD.
Các nhà phân tích tại ANZ viết trong một ghi chú: “Các yếu tố cơ bản trung và dài hạn đều có lợi cho giá kim loại quý vì vô số thách thức về nguồn cung và nhu cầu lành mạnh từ lĩnh vực ô tô và năng lượng mới sẽ khiến thị trường bạch kim bị thiếu cung về cơ cấu”.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tại London chạm mức thấp nhất 7 tuần do USD tăng mạnh, tồn trữ tăng và các dữ liệu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới – Trung Quốc – suy yếu.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) kết thúc phiên giảm 1,2% xuống 9.782 USD/tấn, sau khi chạm 9.680 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 23/4/2024.
Kim loại được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực điện và xây dựng này đã đạt mức cao kỷ lục 11.104,5 USD/tấn trong phiên ngày 20/5/2024.
Amelia Xiao Fu, người phụ trách bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa tại Bank of China International, cho biết: “Nhu cầu chế đồng trong lĩnh vực của Trung Quốc vẫn yếu do giá đồng vẫn khá cao mặc dù đã giảm khỏi mức cao kỷ lục”.
“Trừ khi gia tăng kỳ vọng vào việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ bắt đầu giảm lãi suất và nhu cầu đồng bắt đầu cải thiện, giá đồng có thể duy trì trong khoảng từ 9.500 đến 10.500 USD/tấn.”
Dự trữ đồng tại các kho được giám sát bởi Sở giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đang ở mức cao nhất trong hơn 4 năm và chênh lệch giá đồng giao ngay tại Trung Quốc vẫn ở mức thấp.
Nhà phân tích Sudakshina Unnikrishnan của Standard Chartered cho biết: “Trong khi đồng được hưởng lợi từ bối cảnh thị trường trung và dài hạn hỗ trợ, đặc trưng bởi nhu cầu ngày càng tăng từ các lĩnh vực năng lượng sạch và tái tạo cũng như lo ngại về tăng trưởng nguồn cung từ mỏ, các chỉ số nhu cầu hiện tại tiếp tục có vẻ yếu”.
Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc giảm so với đồng đô la Mỹ xuống mức thấp nhất gần 7 tháng khi các nhà đầu tư quay trở lại sau kỳ nghỉ cuối tuần dài để bắt kịp sức mạnh đồng đô la trên thị trường nước ngoài.
Một nhà giao dịch cho biết: “Có kỳ vọng rằng sẽ có lực mua khi SHFE mở cửa trở lại sau kỳ nghỉ lễ của Trung Quốc. Khi đợt tăng giá ngày hôm qua không tiếp diễn, có vẻ như một chút thanh khoản kéo dài đã xuất hiện trên thị trường”. Giá đồng đã tăng 1,4% vào thứ Hai.
Đối với các kim loại khác, giá nhôm giảm 1,3% xuống 2.538 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 14 tháng 5 – là 2.529 USD. Giá kẽm giảm 2,5% xuống 2.779,50 USD, chì giảm 2% xuống 2.163 USD trong khi thiếc ổn định ở mức 31.975 USD và niken mất 0,4% xuống 17.955 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng, chịu áp lực bởi các yếu tố cơ bản tiếp tục yếu kém và lo ngại triển vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – sau kế hoạch phát thải carbon đối với ngành thép.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 4,16% xuống 806 CNY (111,12 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 10/4/2024. Thị trường kỳ hạn Trung Quốc đóng cửa vào thứ Hai nhân Lễ hội Thuyền rồng.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore giảm 1,57% xuống 103,75 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 8/4/2024.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,77%, thép cuộn cán nóng giảm 1,62%, thép cuộn giảm 1,44% và thép không gỉ giảm 1,16%.
Các nhà phân tích tại Sinosteel Futures cho biết nguồn cung quặng sắt đã tăng trong khi nhu cầu yếu đi và có rất ít khả năng cải thiện, đồng thời bổ sung thêm rằng tồn kho tại cảng ở mức cao gây áp lực lên thị trường.
Các nhà phân tích tại Jinrui Futures cho biết sản lượng kim loại nóng sẽ phải giảm 46 triệu tấn vào năm 2024 nếu các nhà sản xuất thép thực thi kế hoạch phát thải carbon một cách nghiêm ngặt, đồng thời dự báo sản lượng kim loại nóng hàng ngày ở mức 2,27 triệu tấn từ tháng 6 đến tháng 12.
Hôm thứ Sáu tuần trước, cơ quan hoạch định nhà nước của Trung Quốc đã ban hành một kế hoạch hành động đặc biệt về bảo tồn năng lượng và giảm lượng khí thải carbon dioxide (CO2) trong ngành thép. Họ đặt mục tiêu giảm lượng khí thải CO2 khoảng 53 triệu tấn trong khoảng thời gian từ 2024 đến 2025.
Giá quặng cũng bị áp lực bởi sự hoài nghi về tác động của các biện pháp kích thích tài sản khác đối với nhu cầu thép thực tế.
Các nhà phân tích cho biết những nỗ lực của Trung Quốc nhằm giải quyết lượng tồn kho khổng lồ bằng cách biến những ngôi nhà chưa bán thành nhà ở giá rẻ khó có thể giúp ích cho các nhà phát triển bất động sản đang gặp khó khăn về tiền mặt do quy mô hạn chế của chương trình và giá có thể thấp.
Nông sản: Giá lúa mì tại Mỹ tăng trở lại sau khi giảm 9 phiên liên tiếp, do hoạt động đẩy mạnh mua vào và lo ngại về sản lượng vụ thu hoạch tại nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu – Nga.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 19 US cent tương đương 3,1% lên 6,26-1/2 USD/bushel, sau khi giảm xuống 6,05-1/2 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 3/5/2024. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 10-1/4 US cent xuống 11,78 USD/bushel và giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 2-1/4 US cent xuống 4,49-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 0,16 US cent tương đương 0,9% lên 18,79 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London tăng 0,4% lên 546,5 USD/tấn.
Tập đoàn công nghiệp UNICA dự kiến sẽ công bố dữ liệu trong vài ngày tới về sản lượng mía và đường ở Trung-Nam Brazil trong nửa cuối tháng 5. Một cuộc khảo của S&P Global Commodity Insights cho thấy các nhà phân tích dự kiến sản lượng đường trong nửa cuối tháng 5 sẽ giảm 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 2,9 triệu tấn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London giảm 29 USD tương đương 0,7% xuống 4.053 USD/tấn. Trong tuần trước, giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.394 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 0,55 US cent tương đương 0,2% xuống 2,2145 USD/lb.
Thị trường được hỗ trợ bởi Việt Nam - nhà sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới – giảm mạnh xuất khẩu. Tập đoàn công nghiệp Cecafe cho biết xuất khẩu cà phê của Brazil đã tăng 90% trong tháng 5.
Giá cao su tại Nhật Bản tiếp tục giảm do không chắc chắn về sản lượng cao su gây áp lực lên tâm lý các nhà đầu tư.
Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 10 JPY,tương đương 2,81%, xuống 346,5 JPY (2,2 USD)/kg – mức thấp nhất 3 phiên; cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 300 CNY xuống 15.535 CNY (2.141,7 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore giảm 0,05% xuống 183,6 US cent/kg.
Công ty tư vấn Longzhong có trụ sở tại Trung Quốc cho biết trong một lưu ý rằng cần chú ý đến chính sách dự trữ của Trung Quốc và tiến độ khai thác cao su tại các khu vực sản xuất sau kỳ nghỉ lễ, đồng thời cho biết thêm rằng giá cao su có thể dao động nhiều trong thời gian tới.
Jom Jacob, nhà phân tích trưởng của công ty phân tích có trụ sở tại Ấn Độ cho biết, người trồng cao su đã bắt đầu lại việc khai thác rộng rãi và nhiều người đã áp dụng các biện pháp ngắn hạn như "khai thác thâm canh, kích thích dòng mủ cao su, khai thác tránh mưa và bón phân" để cải thiện năng suất.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
78,32
|
+0,42
|
+0,54%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,25
|
+0,33
|
+0,40%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
243,11
|
+2,22
|
+0,92%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,11
|
-0,02
|
-0,74%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
243,95
|
+1,82
|
+0,75%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.330,30
|
+3,70
|
+0,16%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.314,30
|
-2,71
|
-0,12%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,55
|
+0,32
|
+1,09%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
961,84
|
+4,32
|
+0,45%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
452,55
|
+1,55
|
+0,34%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.759,00
|
-140,00
|
-1,41%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.533,50
|
-38,50
|
-1,50%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.771,00
|
-79,50
|
-2,79%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
31.913,00
|
-88,00
|
-0,27%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
449,25
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
625,25
|
-1,25
|
-0,20%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
336,00
|
+2,00
|
+0,60%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,44
|
+0,02
|
+0,13%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.180,00
|
+2,00
|
+0,17%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
358,70
|
-0,60
|
-0,17%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
43,94
|
+0,27
|
+0,62%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
647,80
|
+1,00
|
+0,15%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
9.254,00
|
+338,00
|
+3,79%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
221,45
|
-0,55
|
-0,25%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
18,75
|
+0,16
|
+0,86%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
409,60
|
-19,75
|
-4,60%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
72,16
|
-0,27
|
-0,37%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
180,50
|
+0,60
|
+0,33%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)