menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 15/7: Giá dầu và cà phê giảm, vàng cao nhất gần 2 tháng

12:00 16/07/2024

Phiên thứ Hai (15/7), giá dầu giảm do lo ngại về nhu cầu yếu, trong khi vàng tăng mạnh. Thị trường tiếp tục theo dõi diễn biến chính sách lãi suất của Mỹ.
 
Theo công cụ CME FedWatch Tool, thị trường hiện nhìn thấy gần 100% khả năng Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, sau tin tức tuần trước rằng giá tiêu dùng trong tháng 6 (so với tháng 5) đã giảm lần đầu tiên sau 4 năm.
Năng lượng: Giá dầu giảm do lo ngại về nhu cầu tại nhà nhập khẩu hàng đầu thế giới - Trung Quốc – mặc dù có thông tin tích cực về nền kinh tế Mỹ cũng như nguồn cung của OPEC+ hạn chế và căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 18 US cent, tương đương 0,2%, xuống 84,85 USD/thùng; dầu WTI giảm 30 US cent, tương đương 0,4%, xuống 81,91 USD/thùng.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết “dữ liệu của Trung Quốc bao gồm hoạt động lọc dầu và nhập khẩu dầu thô không mang tính hỗ trợ”. “Nhưng tăng trưởng nhu cầu ở những nơi khác vẫn tốt.”
Nền kinh tế của Trung Quốc trong quý 2/2024 tăng trưởng chậm hơn nhiều so với dự kiến, do suy thoái bất động sản kéo dài và tình trạng bất ổn việc làm đã cản trở quá trình phục hồi, làm gia tăng kỳ vọng Bắc Kinh sẽ đưa ra nhiều biện pháp kích kinh tế thích hơn nữa.
Sản lượng lọc dầu của Trung Quốc trong tháng 6/2024 giảm 3,7% so với cùng tháng năm ngoái và giảm tháng thứ 3 liên tiếp, do bảo trì theo kế hoạch, trong khi biên lợi nhuận chế biến thấp và nhu cầu nhiên liệu giảm, khiến các nhà máy cắt giảm sản lượng.
Tại Mỹ, thị trường tập trung vào vụ ám sát cựu Tổng thống Donald Trump, điều mà một số người cho rằng có thể tăng cơ hội tái đắc cử của ông.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell cho biết chỉ số lạm phát trong quý hai "tăng thêm phần nào niềm tin" rằng lạm phát đang quay trở lại mục tiêu của ngân hàng trung ương Mỹ một cách bền vững, những nhận xét cho thấy thời điểm chuyển sang cắt giảm lãi suất có thể không còn xa nữa.
Fed đã tăng lãi suất mạnh mẽ vào năm 2022 và 2023 để ngăn chặn sự gia tăng lạm phát. Chi phí vay tăng đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu về dầu. Lãi suất hạ xuống có thể thúc đẩy nhu cầu dầu.
Trong khi đó, tại Trung Đông, căng thẳng địa chính trị tiếp tục hỗ trợ giá dầu, mặc dù công suất dự phòng do Saudi Arabia và các thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) khác nắm dồi dào giữ đã hạn chế giá tăng.
Tại Biển Đỏ, hai tàu bị tấn công ngoài khơi thành phố cảng Hodeidah của Yemen, trong đó một tàu báo cáo đã bị hư hại một số.
Tại Iraq, Bộ dầu mỏ cho biết thành viên OPEC này sẽ hạn chế sản lượng để bù đắp cho sản lượng dư thừa kể từ đầu năm 2024.
Tại Nga, Phó Thủ tướng Alexander Novak cho biết thị trường dầu mỏ toàn cầu sẽ cân bằng trong nửa cuối năm và sau đó nhờ thỏa thuận OPEC+ về nguồn cung sản xuất.
OPEC+, nhóm OPEC và các đồng minh như Nga, đã thực hiện một loạt cắt giảm sản lượng kể từ cuối năm 2022 để hỗ trợ thị trường. Ngày 2 tháng 6, nhóm đã đồng ý gia hạn mức cắt giảm 2,2 triệu thùng mỗi ngày cho đến cuối tháng 9 và dần dần loại bỏ kế hoạch n ày từ tháng 10.
Novak của Nga cũng cho biết nước này có thể quyết định khôi phục lệnh cấm xuất khẩu xăng dầu từ tháng 8 nếu nguồn cung nhiên liệu trên thị trường trong nước trở nên thiếu hụt.
Kim loại quý: Giá vàng tăng lên mức cao nhất gần 2 tháng, được hỗ trợ bởi hy vọng Fed cắt giảm lãi suất trong bối cảnh khi các thương nhân chờ đợi bình luận từ các quan chức của Fed để đánh giá thời điểm cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 2.421,25 USD/ounce. – cao nhất kể từ ngày 20/5/2024 khi giá vàng đạt mức cao kỷ lục 2.449,89 USD/ounce. Vàng giao sau tăng 0,3% lên 2.428,9 USD/ounce.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,4% xuống 30,7 USD mỗi ounce, bạch kim ổn định ở mức 998 USD và palladium giảm 2,1% xuống 948,70 USD.
Jim Wyckoff, nhà phân tích thị trường cấp cao tại Kitco Metals, cho biết: “Triển vọng giá vàng và bạc sẽ tiếp tục đi ngang và tăng dần lên, tôi sẽ không ngạc nhiên khi thấy mức cao kỷ lục mới ở đây trong những tuần tới hoặc thậm chí sớm hơn”.
Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết ba chỉ số lạm phát trong quý 2 năm nay cho thấy "việc đưa tốc độ tăng giá trở lại mục tiêu của Fed đang có nhiều tiến bộ hơn". Vàng thỏi có xu hướng tỏa sáng trong môi trường lãi suất thấp.
Trong khi đó, lợi suất trái phiếu dài hạn của Mỹ tăng do các nhà đầu tư cân nhắc liệu vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Mỹ Donald Trump có làm tăng cơ hội chiến thắng của ông hay không.
Everett Millman, giám đốc phân tích thị trường của Gainesville Coins, cho biết: “Rủi ro ở mỗi bên là cân bằng và tôi nghĩ rằng (vàng) có thể sẽ có xu hướng đi ngang vì lý do đó”.
Trọng tâm chú ý của thị trường trong tuần này sẽ là doanh số bán lẻ của Mỹ, sản lượng công nghiệp trong tháng 6/2024 và dữ liệu về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần, có thể cung cấp thêm tín hiệu về sức mạnh của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm, do triển vọng nhu cầu ở Trung Quốc suy yếu do tăng trưởng kinh tế chậm lại và tồn trữ tăng.
Kết thúc phiên, trên Sàn giao dịch kim loại London, giá đồng kỳ hạn 3 tháng giảm 0,8% xuống 9.802 USD/tấn. Giá đã giảm hơn 10% kể từ mức cao kỷ lục hơn 11.100 USD/tấn hôm 20/5/2024.
Nền kinh tế Trung Quốc trong quý 2/2024 tăng 4,7% - thấp nhất kể từ quý 1/2023 và thấp hơn mức dự báo tăng 5,1% cũng như mức 5,3% quý trước đó.
Lượng tiền cho vay của các ngân hàng ở Trung Quốc cũng tăng dưới mức đồng thuận trong tháng 6, cho thấy nhu cầu yếu. Tổng tài trợ xã hội, được các nhà phân tích kim loại xem là thước đo chính cho nhu cầu kim loại, đã chậm lại trong cùng kỳ.
Một nhà kinh doanh kim loại cho biết: “Đồng đã yếu trở lại, dưới áp lực từ số liệu yếu kém của Trung Quốc”, đồng thời cho biết thêm rằng khối lượng giao dịch yếu và đồng đô la tăng giá cũng là một điều tiêu cực.
Nhu cầu chịu áp lực từ đồng tiền Mỹ tăng, khiến kim loại được định giá bằng đồng đô la trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tồn trữ đồng tại London đạt mức cao nhất kể từ tháng 10/2021 (210.325 tấn), cao hơn gấp đôi so với mức giữa tháng 5/2024.
Hầu hết các đợt giao hàng đều đến các kho LME ở Hàn Quốc và Đài Loan, những địa điểm giao hàng gần nhất đối với hàng xuất khẩu từ Trung Quốc, thường là nước nhập khẩu ròng.
Về mặt kỹ thuật, giá đồng bị giới hạn bởi mức hỗ trợ 9.750 USD, đường trung bình động 100 ngày và mức kháng cự ở mức trung bình 200 ngày là 9.980 USD.
Giá nhôm trên sàn London giảm 0,8% xuống 2.462 USD/tấn - thấp nhất 3 tháng (2.464 USD/tấn), sau số liệu cho thấy rằng sản lượng nhôm sơ cấp của Trung Quốc trong tháng 6/2024 tăng lên mức cao nhất gần 1 thập kỷ.
Giá nhôm trên giảm 0,8% xuống 2.462 USD/tấn, trong khi kẽm tăng 0,4% lên 2.956 USD, chì giảm 0,9% xuống 2.189 USD, thiếc giảm 1,7% xuống 33.125 USD và niken CMNI3 mất 0,6% xuống 16.755 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, được củng cố bởi nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – sẽ công bố nhiều biện pháp kích thích hơn tại phiên họp toàn thể lần thứ 3 trong tuần này, sau 1 loạt số liệu kinh tế khiến các nhà đầu tư thất vọng.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,03% lên 834 CNY (114,83 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 1,7%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore tăng 0,69% lên 108,75 USD/tấn.
Giá quặng sắt hầu hết tăng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,9%, thép cuộn cán nóng tăng 0,8%, thép không gỉ tăng gần 0,4%, trong khi thép cuộn giảm 0,4%.
Số liệu chính thức cho thấy, trong quý 2/2024 nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tăng trưởng 4,7% - thấp nhất kể từ đầu quý 1/2023, thấp hơn dự báo 5,1% của các nhà phân tích và giảm so với tăng trưởng 5,3% quý trước đó.
Dữ liệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc chậm lại trong quý 2 do suy thoái tài sản kéo dài ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước, khiến thị trường gia tăng kỳ vọng Bắc Kinh sẽ cần tung ra nhiều biện pháp kích thích hơn nữa.
Dữ liệu chính thức cho thấy, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tăng trưởng 4,7% trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6, tốc độ chậm nhất kể từ quý 1 năm 2023 và thấp hơn dự báo 5,1% của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters. Tăng trưởng cũng giảm so với mức tăng 5,3% trong quý trước.
Điều này xảy ra sau khi hoạt động cho vay của ngân hàng Trung Quốc tăng ít hơn dự kiến trong tháng 6, trong khi một số thước đo tiền tệ chính chạm mức thấp kỷ lục mới.
Các cố vấn chính sách cho biết, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Trung Quốc - rất được mong đợi, bắt đầu từ thứ Hai - sẽ phác thảo những kế hoạch nhằm thúc đẩy sản xuất tiên tiến, quản lý cuộc khủng hoảng tài sản lớn và thúc đẩy tiêu dùng trong nước.
Theo các nhà phân tích, nhu cầu ổn định trong thời gian tới cũng hỗ trợ giá quặng sắt. Trung Quốc sản xuất trung bình hàng ngày khoảng 3,05 triệu tấn thép thô trong tháng 6, cao nhất kể từ tháng 4 năm 2023, theo tính toán của Reuters dựa trên dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ giảm xuống mức thấp nhất gần 4 năm, giá ngô và lúa mì cũng giảm do mưa thúc đẩy triển vọng sản lượng tại Trung tây nước Mỹ và các thương nhân lo ngại về nhu cầu bởi vụ thu hoạch bội thu.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 25-1/4 US cent xuống 10,4 USD/bushel, sau khi chạm 10,38-1/2 USD/bushel – thấp nhất kể từ tháng 10/2020. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 18-1/4 US cent xuống 5,32-1/2 USD/bushel, sau khi chạm xuống mức thấp 5,31 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 10-1/2 US cent xuống 4,04-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE tăng 2,9% lên 19,76 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London tăng 4,4% lên 571,6 USD/tấn.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn trên sàn ICE giảm trở lại so với mức cao kỷ lục của tuần trước. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London giảm 0,7% xuống 4.583 USD/tấn. Trong tuần trước, giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 2,7% xuống 2,4215 USD/lb, giảm từ mức cao kỷ lục 2,5 năm (2,553 USD/lb) trong tuần trước đó.
Lo ngại về thời tiết khô hạn ở Brazil đã góp phần thúc đẩy giá tăng gần đây. "Xuất khẩu từ Việt Nam chậm... và lượng mưa dưới mức trung bình ở bang Minas Gerais của Brazil trong tháng 6 đã củng cố tâm lý lạc quan", BMI cho biết.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm phiên thứ 2 liên tiếp, chịu áp lực giảm bởi số liệu kinh tế yếu kém từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc, cùng với đó là giá cao su tổng hợp giảm cũng gây áp lực thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 2 JPY tương đương 0,62% xuống 322,9 JPY (2,04 USD)/kg. Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 265 CNY tương đương 1,8% xuống 14.375 CNY (1.979,21 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 1,6% xuống 160,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

81,65

-0,26

-0,32%

Dầu Brent

USD/thùng

84,61

-0,24

-0,28%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

248,80

-0,36

-0,14%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,16

+0,01

+0,28%

Dầu đốt

US cent/gallon

250,82

-0,54

-0,21%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.431,70

+2,80

+0,12%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.429,35

+7,08

+0,29%

Bạc (Comex)

USD/ounce

31,02

+0,08

+0,26%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

998,61

-0,78

-0,08%

Đồng (Comex)

US cent/lb

452,05

-0,60

-0,13%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.806,00

-71,00

-0,72%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.461,50

-19,50

-0,79%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.955,00

+12,00

+0,41%

Thiếc (LME)

USD/tấn

33.246,00

-449,00

-1,33%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

406,50

+2,25

+0,56%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

533,50

+1,00

+0,19%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

310,75

-3,00

-0,96%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,67

-0,03

-0,20%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.043,00

+3,00

+0,29%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

307,70

-0,60

-0,19%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

45,41

+0,50

+1,11%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

616,40

+0,90

+0,15%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.595,00

+274,00

+3,29%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

242,15

-6,60

-2,65%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,76

+0,56

+2,92%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

451,60

+1,80

+0,40%

Bông (ICE)

US cent/lb

72,36

-0,08

-0,11%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

163,30

+0,70

+0,43%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)