menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 1/8/2024: Giá hầu hết giảm

12:48 02/08/2024

Phiên thứ Năm (1/8), giá năng lượng, kim loại và nông sản hầu hết giảm do USD mạnh lên và triển vọng nhu cầu của Trung Quốc sẽ tiếp tục yếu.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm hơn 1 USD khi nguồn cung trên toàn cầu dường như không bị ảnh hưởng nhiều bởi lo ngại về cuộc khủng hoảng lan rộng ở Trung Đông sau khi một nhà lãnh đạo Hamas ở Iran bị ám sát. Các nhà đầu tư tập trung trở lại vào mối lo ngại về nhu cầu.
Giá dầu thô Brent lúc kết thúc phiên giảm 1,32 USD, hay 1,6%, xuống còn 79,52 USD/thùng, trong khi giá dầu thô WTI của Mỹ giảm 1,60USD, hay 2,1%, xuống còn 76,31 USD.
Trong phiên trước, cả 2 loại dầu đã tăng khoảng 4% do lo ngại về một cuộc xung đột rộng lớn hơn ở Trung Đông.
"Tôi nghĩ rằng mọi người ngày càng nhận ra rằng chúng ta chưa thấy bất kỳ sự gián đoạn nguồn cung thực sự nào. Thị trường đang chuyển sự tập trung ra khỏi các vấn đề địa chính trị và hướng đến nhu cầu dầu thô toàn cầu", Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch tại BOK Financial cho biết.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn đang theo dõi chặt chẽ mọi sự gián đoạn, đặc biệt là đối với các tuyến đường vận chuyển dầu, các nhà phân tích cho biết. Các chiến binh Houthi liên kết với Iran đã tấn công các tàu đi qua Biển Đỏ, buộc các tàu chở dầu phải chọn các tuyến đường thay thế dài hơn.
Một cuộc họp của các bộ trưởng hàng đầu OPEC+ đã giữ nguyên chính sách sản lượng dầu, bao gồm cả kế hoạch bắt đầu tháo gỡ dần kế hoạch cắt giảm sản lượng kể từ tháng 10/2024.
Chính sách của OPEC+ theo thỏa thuận vào tháng 6 kêu gọi một số thành viên dần dần loại bỏ việc cắt giảm 2,2 triệu thùng mỗi ngày từ tháng 10 năm 2024 đến tháng 9 năm 2025. Nhóm này cũng đã đồng ý gia hạn các đợt cắt giảm trước đó là 3,66 triệu thùng/ngày cho đến cuối năm 2025.
Có một yếu tố hỗ trợ giá, đó là dữ liệu của chính phủ Mỹ vào thứ Tư cho thấy nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ đã đẩy lượng dự trữ dầu thô hàng tuần của Mỹ giảm 3,4 triệu thùng.
“Về lâu dài, các nhà đầu tư không tin tưởng vào nhu cầu của Trung Quốc”, nhà phân tích Priyanka Sachdeva của Phillip Nova cho biết, đồng thời nói thêm rằng mối lo ngại này sẽ hạn chế đà tăng của giá dầu.
Một cuộc khảo sát của khu vực tư nhân vào thứ Năm cho thấy hoạt động sản xuất của Trung Quốc trong tháng 7 đã giảm lần đầu tiên sau chín tháng do các đơn đặt hàng mới giảm. Vào thứ Tư, dữ liệu chính thức của Trung Quốc cho thấy hoạt động sản xuất tháng 7 đã giảm xuống mức thấp nhất trong năm tháng.
Ở một diễn biến khác, Ngân hàng Anh hôm thứ 5 đã cắt giảm lãi suất từ mức cao nhất trong 16 năm. Vào thứ Tư, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell cho biết lãi suất của Mỹ có thể được cắt giảm sớm nhất là vào tháng 9. Lãi suất hạ xuống làm giảm chi phí vay, có thể thúc đẩy hoạt động kinh tế và nhu cầu dầu mỏ.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ lúc kết thúc phiên do đồng USD tăng, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần vào đầu phiên, do kỳ vọng về việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 và nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn tăng cao. Thị trường vàng cũng chuyển trọng tâm chú ý sang dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ, sẽ được công bố vào thứ Sáu.
Vàng giao ngay kết thúc phiên giảm khoảng 0,4% xuống còn 2.438,32 USD/ounce. Tuy nhiên, hợp đồng vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 tăng 0,3% lên 2.480,8 USD.
Giá bạc giao ngay giảm 2,4% xuống 28,33 USD, bạch kim giảm 1,3% xuống 963,05 USD, palladium giảm 2,2% xuống 904,71 USD.
Đồng USD tăng lên 0,3% sau khi giảm vào ngày hôm trước khi các ngân hàng trung ương tiếp tục làm đảo lộn thị trường tiền tệ.
Trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách vào thứ Tư, Chủ tịch Jerome Powell cho biết lãi suất có thể được cắt giảm sớm nhất là vào tháng 9 nếu nền kinh tế Mỹ đi theo lộ trình dự kiến.
"Thị trường hoàn toàn tin rằng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 và có trên thị trường nhiều người đang thảo luận về khả năng Cục Dự trữ Liên bang cắt giảm 50 điểm cơ bản", Bart Melek, giám đốc chiến lược hàng hóa tại TD Securities cho biết.
Vàng thỏi, theo truyền thống được biết đến là một biện pháp ưa chuộng để phòng ngừa rủi ro địa chính trị và kinh tế, có xu hướng phát triển mạnh trong môi trường lãi suất thấp.
Hiện tại, các nhà giao dịch đang chờ báo cáo về bảng lương trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ, sẽ công bố vào thứ Sáu, để biết thêm thông tin về lộ trình chính sách của Fed.
Đồng thời, hoạt động mua vào của ngân hàng trung ương và nhu cầu vàng vật chất ở châu Á vẫn còn yếu, "vì vậy hiện tại thị trường vàng không hoạt động hết công suất nhưng đến một lúc nào đó, chúng tôi tin rằng điều đó sẽ xảy ra", Melek nói thêm.
"Nhu cầu vàng của ngân hàng trung ương trong năm 2024/2025 sẽ vẫn ở mức cao mặc dù gần đây không có 'báo cáo' về việc PBOC mua vàng trong tháng 5 và tháng 6", các nhà phân tích của Citi cho biết.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc, đơn vị mua vàng chính thức lớn nhất trong năm 2023, trong tháng 6 đã kiềm chế việc mua vàng vào dự trữ của mình trong tháng thứ hai liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm do dữ liệu nhà máy tại Trung, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, Quốc tệ hơn dự kiến và hàng tồn kho tăng làm nổi bật tình trạng dư cung.
Đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,9% xuống còn 9.048 USD/tấn, sau khi tăng 2,8% trong phiên trước.
Giá đồng trên sàn LME đã giảm 18% kể từ khi đạt mức đỉnh kỷ lục là 11.104,50 USD vào tháng 5, do lo ngại về nhu cầu yếu ở Trung Quốc.
Mối lo ngại này càng gia tăng sau khi các cuộc khảo sát trong hai ngày qua cho thấy lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc trì trệ, với hoạt động trong tháng 7 giảm lần đầu tiên trong vòng 9 tháng do nhu cầu yếu.Các nhà đầu tư đã thất vọng vì Trung Quốc chưa công bố các biện pháp kích thích lớn để thúc đẩy nền kinh tế. "Đây là một trò chơi đoán mò về Trung Quốc. Dữ liệu cho thấy họ cần phải có động thái táo bạo hơn", Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa tại WisdomTree cho biết.
"Bộ chính trị đã họp, đây có thể là cơ hội tuyệt vời để đưa ra điều gì đó có ý nghĩa và táo bạo, nhưng họ đã không thực sự làm như vậy".
Lượng đồng tồn trữ trong các kho của sàn LME đã tăng gấp đôi kể từ đầu tháng 6 và đạt mức cao nhất trong vòng gần ba năm cũng đang gây áp lực giảm giá.
Chỉ số USD tăng cũng gây áp lực lên giá kim loại, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng USD Mỹ trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Niken là mặt hàng giảm giá mạnh nhất trên sàn LME sau khi lượng hàng tồn kho trên LME tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 12 năm 2021. Giá nickel đã giảm 2,3% xuống 16.230 USD/tấn.
Trong các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,2% xuống 2.285,50 USD/tấn, chì giảm 1,3% xuống 2.057,50 USD, thiếc giảm 1% xuống 29.750 USD, trong khi kẽm tăng 0,7% lên 2.695 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất trong hơn một tuần, được thúc đẩy Rio Tinto đánh giá triển vọng lạc quan về nhu cầu ở Trung Quốc và hy vọng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ tiếp tục đưa ra các biện pháp kích thích hơn nữa.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng 2,35% ở mức 783,5 nhân dân tệ (108,28 USD) một tấn. Trong phiên, có lúc giá đạt 790,5 nhân dân tệ, mức cao nhất kể từ ngày 23 tháng 7.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 Strên Sàn giao dịch chứng khoán Singapore tăng 1,91% lên 102,85 USD/tấn.
Giá thép trên sàn Thượng Hải cũng tăng. Thép cây tăng gần 1,1%, thép cuộn cán nóng tăng gần 0,8%, thép không gỉ tăng khoảng 0,7% và thép dây tăng nhẹ 0,24%.
Rio Tinto, nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới, báo cáo thu nhập cơ bản trong nửa đầu năm tăng và những bình luận lạc quan của họ về yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy giá các hợp đồng quặng sắt, các nhà phân tích của ANZ cho biết.
Giám đốc điều hành của Rio, Jakob Stausholm dự đoán nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng "cộng hoặc trừ 5%", điều này sẽ hỗ trợ nhu cầu hàng hóa rắn.
Stausholm đã trích dẫn tác động "to lớn" của quá trình chuyển đổi xanh của Trung Quốc đối với nhu cầu thép, đồng thời kỳ vọng sẽ thúc đẩy mức tiêu thụ quặng sắt chất lượng cao hơn.
Các nhà phân tích của Westpac cho biết dữ liệu kinh tế Trung Quốc yếu hơn dự kiến đã làm tăng thêm hy vọng về các biện pháp kích thích của chính phủ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có khả năng và sự tự tin để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm là khoảng 5% và sẽ nỗ lực mở rộng nhu cầu trong nước một cách tích cực, các quan chức hoạch định nhà nước cho biết.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong gần bốn năm khi cơ quan khí tượng Mỹ dự báo thời tiết mát mẻ, mưa nhiều ở Vành đai trồng Ngô thúc đẩy kỳ vọng về năng suất. Giá lúa mì tăng do lo ngại về thời tiết trên toàn cầu.
Giá ngô kỳ hạn trên Sàn giao dịch Chicago kết thúc phiên giảm 1-1/4 cent xuống còn 3,98-1/2 USD/bushel, sau khi đạt 3,95 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ tháng 11 năm 2020. Giá đậu tương giảm 6 cent xuống còn 10,16-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 10,13 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2020. Giá lúa mì ổn định ở mức 5,32 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tương lai trên sàn ICE lúc kết thúc phiên thứ Năm giảm sau khi thời tiết ở các khu vực trồng mía ở Ấn Độ có mưa, cải thiện triển kỳ vọng về vọng sản lượng.
Đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,44 cent, hay 2,3%, xuống18,50 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 2,1% xuống còn 523,50 USD/tấn.
Các đại lý cho biết lượng mưa trong mùa mưa ở Ấn Độ cao hơn bình thường khi hình thành kiểu thời tiết La Nina vào tháng 8 và tháng 9, hứa hẹn sẽ thúc đẩy sản lượng nông nghiệp và tăng trưởng tại nền kinh tế lớn thứ ba châu Á. Tuy nhiên, thị trường được hỗ trợ bởi triển vọng sản xuất giảm ở Trung Nam Brazil, do khu vực này sẽ vẫn khô hạn trong những tuần tới.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 0,7% xuống 4.233 USD/tấn, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất trong bốn tuần là 4.158 USD/tấn. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 0,9% xuống còn 2,2725 US/lb, sau khi chạm mức thấp nhất trong gần một tháng là 2,2525 USD/lb.
Các đại lý cho biết thị trường chịu áp lực bởi nguồn cung arabica và conillon (robusta) ở Brazil tăng, nơi vụ thu hoạch đang trong giai đoạn cuối.
Công ty môi giới Hedgepoint Global Markets cho biết Indonesia cũng đang gia tăng cung cấp cà phê (robusta) trên thị trường, vì vụ thu hoạch của họ đạt đến đỉnh điểm. Tuy nhiên, việc giảm xuất khẩu cà phê robusta từ Việt Nam vẫn tiếp tục hỗ trợ giá.
"Tin tức về việc xuất khẩu từ Việt Nam giảm đã ngăn giá giảm thêm", một thương nhân có trụ sở tại vành đai trồng cà phê của Việt Nam cho biết.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm do dữ liệu kinh tế yếu kém ở nước tiêu thụ hàng đầu thế giới, Trung Quốc, và đồng yên mạnh hơn.
Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên Sở giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên giảm 3,8 yên, hay 1,21%, xuống 311,3 yên (2,08 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 110 nhân dân tệ, tương đương 0,78%, lên 14.260 nhân dân tệ (1.970,51 USD)/tấn. Hợp đồng cao su tháng 9 trên sàn Sở giao dịch chứng khoán Singapore tăng 0,4% lên 163,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

76,69

+0,38

+0,50%

Dầu Brent

USD/thùng

79,86

+0,34

+0,43%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

240,45

+0,65

+0,27%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,97

+0,00

+0,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

241,14

+0,50

+0,21%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.494,40

+13,60

+0,55%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.452,26

+6,00

+0,25%

Bạc (Comex)

USD/ounce

28,67

+0,19

+0,68%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

965,74

+2,22

+0,23%

Đồng (Comex)

US cent/lb

 

 

 

Đồng (LME)

USD/tấn

9.225,00

+253,00

+2,82%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.290,50

+66,00

+2,97%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.675,50

+46,50

+1,77%

Thiếc (LME)

USD/tấn

30.056,00

+1.277,00

+4,44%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

399,75

-5,25

-1,30%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

527,25

+3,25

+0,62%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

319,75

+2,75

+0,87%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,25

+0,02

+0,10%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.022,50

+1,25

+0,12%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

315,70

-2,30

-0,72%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

42,32

+0,42

+1,00%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

623,90

+6,20

+1,00%

Cacao (ICE)

USD/tấn

6.991,00

-83,00

-1,17%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

229,20

-1,60

-0,69%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,94

-0,18

-0,94%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

420,90

-4,45

-1,05%

Bông (ICE)

US cent/lb

68,99

-0,56

-0,81%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

166,40

+1,80

+1,09%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)